Trò chơi trị liệu ( Phần I )
24/01/2012Giúp trẻ nâng cao khả năng chú ý
25/01/2012Trong liệu pháp chơi, các can thiệp được duy trì dài hạn và mục đích nhằm giúp trẻ đạt đến những thay đổi sâu hơn những chức năng về cảm xúc và xã hội.
Tiếp theo
CÁC KIỂU GIAO TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN CHƠI (PLAY RELATED COMMUNICATIONS)
Một số tác giả (Redgrave, 1987, 2000; Williamson, 1990) đã mô tả một số cách can thiệp trong đó các vật liệu được sử dụng để gia tăng khả năng giao tiếp của trẻ với người lớn và cũng giúp trẻ hiểu biết nhiều hon về các sự kiện. Họ đã viện dẫn lý do này để sử dụng các con rối, điện thoại đồ chơi hoặc các hình nhân trong nhà búp bê…. Giả định là: trẻ có thể chuyển vị (displace) những tình cảm của mình hướng vào các vật liệu chơi và trẻ có thể giao tiếp với một con rối thì ít cảm thấy lo âu hơn là khi nói chuyện trực tiếp với một người lớn. Trẻ nhỏ thường ít lời hơn người lớn và phương tiện phi ngôn ngữ là cách giao tiếp dễ sử dụng hơn. Thông qua quan sát trẻ chơi, người lớn có thể dễ dàng hơn trong việc đánh giá mức độ hiểu biết của trẻ đối với một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Redgrave đã mô tả như sau:
… Về những tình huống xã hội hoặc tâm lý – xã hội liên quan đến đứa trẻ, chúng ta có thể khám phá và cố gắng giải thích những sự việc ấy diễn ra như thế nào… Nhiều công cụ có thể được sử dụng để giúp trẻ đương đầu với những khía cạnh xã hội và tâm lý – xã hội trong hoàn cảnh sống hiện tại của trẻ. Bản đồ sinh thái (ecomap) và sơ đồ xã hội (sociogram) là những ví dụ…
Redgrave, 1987.
Trong một trường hợp khác, Redgrave mô tả tiến trình “bắt cầu” (bridging) như sau:
… Đứa trẻ bắt đầu xây dựng cầu bằng cách đặt một số viên gạch ở hai đầu cầu. Ở một đầu chúng tôi đặt một vật tượng trưng cho trẻ, đầu cầu bên kia là vật tượng trưng cho người chăm sóc trẻ trong tương lai. Tuy nhiên, ngoài một số viên gạch đã được đặt vào, phần còn lại của cây cầu chỉ được thực hiện như một đường đứt quãng…
Ý tưởng cần được trao đổi là trẻ sẽ sống với người chăm sóc và có những việc cần phải được bàn đến trước khi việc này xảy ra… Bằng cách sử dụng những viên gạch để bàn luận những gì cần bàn, trẻ và người chăm sóc sẽ xây nên một chiếc cầu và sau cùng đến được với nhau… (như trường hợp trẻ được một gia đình nhận nuôi)
Redgrave, 2000.
Cách tiếp cận giao tiếp với trẻ như trên sẽ trở nên quen thuộc với nhiều nhà trị liệu. Các đoạn trích dẫn trên đây nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa chơi trị liệu và các hoạt động chơi có mục đích thực hiện các quan tâm chuyên biệt của ngưòi lớn.
CHƠI ĐỂ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐÁNH GIÁ
Marvasti (1989) định nghĩa chẩn đoán thông qua chơi (play diagnosis) là “một kỹ thuật giúp trẻ bộc lộ các xung đột nội tâm, các huyễn tưởng, ước muốn và những nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh…” Các vật liệu chơi được chọn lựa cẩn thận để nhà trị liệu có thể tập trung nhiều vào những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống của trẻ và có thể đánh giá được những tác động của những sự kiện đó lên nhân cách và quá trình phát triển của trẻ. Việc sử dụng chơi để đánh giá dựa trên ý tưởng rằng trong khi chơi, đứa trẻ sẽ thể hiện ra bằng hành động (act out) những cảm xúc thật của trẻ, với sự hỗ trợ của một số cơ chế tự vệ mà chủ yếu là phóng chiếu, chuyển vị và biểu tượng hóa. Những nỗi lo âu và sự thúc ép thường gặp sẽ không vận hành bởi vì những cảm xúc này sẽ được phóng chiếu và chuyển vị lên các vật liệu chơi. Do vậy, những hoạt động thực hiện trên những con búp bê sẽ dễ dàng hơn là trên những đứa trẻ thực.
Trong buổi chơi, Jimmy bố trí một gia đình búp bê phía bên ngoài ngôi nhà (dollhouse). Sau đó, búp bê mẹ mang ra một chú chó con khiến cả gia đình chú ý đến. Lát sau, một con quái vật xuất hiện và bắt cóc chú cún mang đi… Marvasti, 1989.
Trò chơi trên đây thể hiện nỗi oán giận của Jimmy đối với sự xuất hiện của một cô giữ trẻ trong gia đình cùng với sự giận dữ mà nó đang cảm thấy. Các xung động hủy hoại của đứa trẻ đối với cô giữ trẻ được giả định là đã được chuyển vị vào con quái vật. Ngoài ra, Jimmy cũng có thể sử dụng cơ chế biểu tượng hóa; trẻ đã dùng chú chó con để thay thế cho cô giữ trẻ.
Điều được thấy rõ trong ví dụ trên đó là trong khi chơi trẻ thường bận tâm về những gì xảy ra trong thực tại nội tâm, nghĩa là cách trẻ nhận thức về các sự kiện, nhiều hơn là những gì xảy ra trong thực tế khách quan. Thực tại nội tâm của trẻ, thông qua những nhu cầu và nỗi sợ hãi, có thể là hình ảnh bị bóp méo của thực tế khách quan. Một trong những công việc quan trọng của nhà thực hành là phải diễn giải những nội dung chơi của trẻ, hiểu được những ý nghĩa mang tính biểu tượng của nó và phân biệt rõ những gì xảy ra trong trò chơi của Jimmy với những việc thực sự xảy ra trong môi trường sống của trẻ. Trong khi đó nếu buổi chơi được thực hiện một phần để đánh giá những nhu cầu trị liệu của trẻ, mối quan tâm chủ yếu là phải xác định được thực tại nội tâm và những nhận thức của trẻ về những sự kiện và các mối quan hệ quan trọng trong đời sống.
Chơi để chẩn đoán và các can thiệp liên quan đến chơi có cùng những giả định và vì thế cùng lý do để sử dụng. Chẳng hạn nhà trị liệu có thể sử dụng con rối để khảo sát khả năng đứa trẻ có thể bị xâm hại bởi vì khi nói ra câu chuyện của mình thông qua những con rối trẻ sẽ ít cảm thấy e sợ hơn; nói cách khác khi sự kiểm duyệt do trao đổi bằng lời nói bị dỡ bỏ, trẻ có thể chuyển vị những cảm xúc và hành động của mình lên trên con rối. Chơi là hương tiện giao tiếp của trẻ nhỏ, trẻ thiểu năng hoặc những người trẻ có những hạn chế về khả năng ngôn ngữ và trình độ nhận thức. Vì thế, trước khi trẻ có được khả năng tự duy trừu tượng và sự lưu loát về ngôn ngữ để diễn đạt các trải nghiệm, trẻ sẽ sử dụng các vật tượng trưng dễ dàng hơn khi dùng lời nói (chẳng hạn cái cây tượng trưng cho lịch sử quá khứ của một gia đình). Việc sử dụng chơi ở đây được dựa trên giả định rằng hoạt động chơi là một lĩnh vực tư duy ít chịu sự kiểm duyệt và nó phù hợp với trình độ phát triển về trí tuệ, cảm xúc và nhận thức của trẻ.
Trong chơi để chẩn đoán có sự phát huy tối đa khả năng chơi tự do của trẻ và việc chẩn đoán cũng phụ thuộc phần lớn vào khả năng của nhà trị liệu trong việc quan sát, đánh giá và diễn giải các hoạt động chơi của trẻ. Mặc dù các vật liệu chơi được chọn lựa cẩn thận, các kỹ thuật trong chơi để chẩn đoán ít có tính hướng dẫn hơn các hình thức giao tiếp liên quan đến chơi như đã mô tả ở phần trên.
II. LIỆU PHÁP CHƠI KHÔNG HƯỚNG DẪN
Liệu pháp chơi không hướng dẫn được phát triển một cách đầy đủ nhất là bởi Virginia Axline thông qua hai quyển sách xuất bản năm 1946 và 1987, cùng một loạt các bài viết và công trình nghiên cứu về chơi trị liệu. Mặc dù cùng thời gian nhiều tác giả khác cũng có đề cập đến loại hình tiếp cận này như Allen (1942), Dorfman (1976) và Moustakas (1953), Axline vẫn được xem là tác giả tiêu biểu nhất. Tác phẩm đầu tiên (Axline, 1946) là sự cống hiến của bà trong một nghiên cứu về trường hợp một đứa bé sáu tuổi, Dibs. Quyển sách đã thu hút nhiều độc giả như một báo cáo đầy đủ về một mối quan hệ trị liệu, những cách thức mà một đứa trẻ thông qua chơi có thể đạt được khả năng giải quyết vấn đề và làm chủ các xung đột nội tâm của mình. Trong quyển sách thứ hai (Axline, 1987), bà đã nêu ra 8 nguyên tắc thực hành cùng những ví dụ về những tình huống trong phiên trị liệu.
Công trình của Axline gây ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực thực hành chơi trị liệu. Nhiều tác giả khác, mặc dù không tán thành cách tiếp cận không hướng dẫn, vẫn thừa nhận giá trị từ những ý tưởng của Axline đối với công việc của họ. Winnicott, khi bàn đến những trải nghiệm có thực một cách sâu đậm mà trẻ có được thông qua chơi đã bình luận như sau:
Quan sát này giúp chúng ta hiểu được cách thức làm thế nào mà tâm lý trị liệu chiều sâu có thể thực hiện được mà không cần có sự diễn giải. Một ví dụ cho điều này là công trình của Axline (1987) ở New York… Tôi đánh giá cao công trình của Axline theo một cách thức đặc biệt bởi vì nó đã kết nối với điều mà tôi đã nêu khi báo cáo về một thời điểm khi đứa trẻ tự ngạc nhiên về chính bản thân mình… Đó không phải là thời điểm khi mà kỹ thuật diễn giải thông thái của tôi có ý nghĩa…Winnicott, 1988
Tuy nhiên, khi tổng lược tài liệu về chơi trị liệu, mặc dù vẫn được tham khảo và trích dẫn rộng rãi mãi cho đến gần đây, mô hình tiếp cận của Axline đã thất bại trong việc hình thành một trường phái tư tưởng với phương pháp luận đầy đủ hơn và chặt chẽ hơn. Ngoài ra, chức năng của chơi trong tiến trình trị liệu và sự liên hệ của chơi với sự phát triển tinh thần và cảm xúc cũng chưa được phân tích đủ.
Chơi trị liệu được dựa trên một thực tế rằng chơi là môi trường tự nhiên để đứa trẻ tự thể hiện bản thân. Đó chính là cơ hội để trẻ bộc lộ ra qua chơi (“play out”) những cảm xúc và vấn đề của trẻ; cũng giống như một số loại liệu pháp ở người lớn, một cá nhân có thể nói ra (“talk out”) các khó khăn của mình Axline, 1987
Gần đây, việc thực hành liệu pháp chơi không hướng dẫn đã được xem xét lại và được cập nhật, với những nền tảng lý thuyết và các thủ tục cũng trở nên chuyên biệt hóa chặt chẽ hơn. Nhiều nghiên cứu về tính hiệu quả của liệu pháp đã được thực hiện, phần lớn là tại Hoa Kỳ. Nhiều nghiên cứu cho thấy liệu pháp chơi không hướng dẫn là có hiệu quả nhất là khi có sự tham gia của phụ huynh vào tiến trình trị liệu và thời gian trị liệu ở mức tối ưu (Ray và cs., 2000). Tuy nhiên, vẫn cần có thêm nhiều nghiên cứu trên những cỡ mẫu lớn hơn, với những nhóm đối chứng, cũng như hiểu thêm về hiệu quả của liệu pháp chơi không hướng dẫn chẳng hạn như khi nào, trong hoàn cảnh nào và với vấn đề gì thì liệu pháp sẽ có mức độ thành công cao nhất.
NGUYÊN LÝ VÀ THỰC HÀNH
Liệu pháp chơi không hướng dẫn bắt nguồn từ những nguyên lý cơ bản của tâm lý trị liệu theo trường phái Rogers. Nguyên lý trung tâm của trường phái này chính là xem con người tự bản thân mình đã có sẵn khuynh hướng đạt đến chức năng sống lành mạnh hơn và tốt hơn, từ đó có khả năng tự giải quyết các vấn đề của mình một cách thỏa đáng khi có được cơ hội và bầu khí thích hợp để thực hiện điều đó. Rogers xem nhà trị liệu có vai trò tạo nên những điều kiện tốt như thế để giúp thân chủ “tự hiện thực hóa” bản thân họ. Ông cũng tin rằng có những tính chất đặc trưng cốt lỏi để một nhà trị liệu có thể làm việc này trong thực tế bao gồm: sự trung thực, lòng nhiệt tình không chiếm hữu và khả năng thấu cảm đúng đắn.
Thêm vào đó, trong một mối quan hệ trị liệu hiệu quả, nhà trị liệu còn có khả năng đáp ứng lại với những điều thân chủ đang nói, phản ảnh lại cho thân chủ biết rằng nhà trị liệu đã hiểu được những gì thân chủ đang trải nghiệm. Thông qua sự phản ảnh đúng đắn của nhà trị liệu, thân chủ sẽ nhận ra những cảm xúc của mình và trở nên làm chủ đối với chúng.
Phản ảnh là kỹ thuật được sử dụng trong thời điểm hiện tại, không có tính chất diễn giải; nó sử dụng lại những tư liệu mà thân chủ đang trình bày và không cố gắng liên hệ những tư liệu hiện tại với những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Axline định nghĩa phản ảnh như là “soi gương lại những cảm xúc và tâm trạng” giống như cách nhà trị liệu giao tiếp bằng những hình ảnh ẩn dụ mà thân chủ đã sử dụng. Phản ảnh vì thế không giống với kỹ thuật được sử dụng trong thuật phân tâm. Trong trị liệu phân tâm, thân chủ nói và làm; nhà trị liệu thì diễn giải và chuyển những hình ảnh ẩn dụ thành điều mà nhà trị liệu nghĩ rằng thân chủ dường như đang muốn thể hiện. Trong trị liệu cho người lớn, các “nội dung” có thể được nói thành lời; còn với trẻ em, các ẩn dụ thường là nội dung chơi, tuy không luôn nhất thiết là thế.
TÁM ĐIỀU HƯỚNG DẪN CỦA AXLINE
- 1.Nhà trị liệu phải pát triển một mối quan hệ thân thiện, nồng ấm với đứa trẻ qua đó một mối liên hệ gắn bó phải được hình thành càng sớm càng tốt.
- 9.Axline, 1987: 73-74
- Nhà trị liệu phải chấp nhận đứa trẻ như chính con người mà trẻ đang là.
- Nhà trị liệu phải giúp hình thành một cảm nhận về sự cho phép trong mối quan hệ này sao cho trẻ cảm thấy tự do trong việc thể hiện những cảm xúc của mình một cách trọn vẹn.
- Nhà trị liệu phải sáng suốt nhận ra những cảm xúc mà trẻ đang thể hiện và phản ảnh lại bằng một cách thức sao cho trẻ có thể thấu hiểu được những hành vi của chính bản thân mình.
- Nhà trị liệu duy trì một sự tôn trọng sâu sắc đối với khả năng của trẻ trong việc tự giải quyết vấn đề của mình miễn là được tạo cơ hội. Trách nhiệm lựa chọn và thực hiện sự thay đổi là việc của bản thân đứa trẻ.
- Nhà trị liệu không cố gắng hướng dẫn trẻ làm gì, nói gì dưới bất kỳ hình thức nào. Đứa trẻ là người dẫn đường; nhà trị liệu theo sau.
- Nhà trị liệu không cố thúc đẩy tiến trình trị liệu đi tới. Cần hiểu rằng đây là một tiến trình lâu dài, từ từ.
- Nhà trị liệu chỉ nên thiết lập những giới hạn cần thiết để gắn kết tiến trình trị liệu với thực tế đời sống và giúp trẻ nhận ra trách nhiệm của trẻ trong mối quan hệ trị liệu này.
Axline cũng nhấn mạnh rằng liệu pháp không hướng dẫn là một tiến trình hợp nhất, trong đó mỗi nguyên lý nêu trên có tính đan xen và tương quan phụ thuộc với các nguyên lý khác. Vì thế khi nhà trị liệu có lòng tin vào sức mạnh của thân chủ trong việc tự giải quyết vấn đề sẽ mang lại khả năng chấp nhận thân chủ như chính con người vốn có của họ, sẵn sàng cho phép thân chủ lựa chọn và sẵn lòng tôn trọng các quyết định của họ. Tuy nhiên, sự chấp nhận như thế không có nghĩa là nhà trị liệu chỉ là một người quan sát thụ động trong các phiên trị liệu. Nhà trị liệu phải có khả năng tham gia tích cực, tạo lập bầu khí sao cho thân chủ có thể làm rõ các vấn đề và khám phá khả năng của họ. Điều làm cho liệu pháp này khác biệt với những cách thức can thiệp và các liệu pháp khác chính là bản chất “không hướng dẫn”. Chính đứa trẻ là người chọn lựa các trọng tâm và chủ đề khi chơi trong phòng trị liệu, bên trong những ranh giới, khuôn khổ được vạch ra một cách cẩn thận Vai trò của nhà trị liệu là tạo lập nên một mối quan hệ thân tình và tin cậy lẫn nhau, phản ảnh và đáp ứng lại các ý nghĩ, cảm xúc và hoạt động theo cách sao cho trẻ có thể tự giải quyết các vấn đề cảm xúc của mình bằng chính cách thức mà trẻ lựa chọn và xảy ra với nhịp độ của chính đứa trẻ đang thực hiện. Khác với những liệu pháp khác, sự phản ảnh mà nhà trị liệu thực hiện không bao gồm sự khen thưởng, diễn giải hoặc thách thức. Các giới hạn trong phòng trị liệu phải được thiết lập. Nhà trị liệu phải đảm nhận trách nhiệm của một người lớn trong việc bảo đảm sự an toàn cho trẻ, gìn giữ vật liệu chơi, phòng chơi và ẩn định khuôn khổ thời gian làm việc. Bên trong những giới hạn được thiết lập rõ ràng như thế, bầu khí của phòng chơi trị liệu phải thực sự thư giãn. Hành vi và cách giao tiếp của nhà trị liệu phải tạo nên nơi trẻ những cảm nhận về sự an toàn và tin cậy, từ đó nếu trẻ muốn, trẻ sẽ tự do giải bày và khám phá các chủ đề nổi trội trong cảm xúc của trẻ.
ĐIỂM CHUNG TRONG CÁC CÁCH TIẾP CẬN
Mối quan hệ trị liệu tạo nên bối cảnh cho phép sự giải bày cảm xúc
– Cần nhận diện chức năng và những ý nghĩa mang tính biểu tượng của nội dung chơi, cùng với những cách thức mà chơi được sử dụng để bộc lộ các ước muốn, huyễn tưởng, các xung đột nội tâm và sự nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh.
– Tạo cơ hội cho việc xử lý lại các sang chấn, các sự kiện hoặc các trải nghiệm gây vấn đề nơi trẻ.
– Mang lại những trải nghiệm mới đã được điều chỉnh trong bối cảnh chơi.
– Tạo điều kiện để giảm nhẹ hoặc khơi thông những cảm xúc bị đè nén hoặc tbế tắc mà điều này tự nó đã có tính trị liệu.
– Tạo cơ hội để phát triển khả năng làm chủ các cảm xúc, và đến một mức độ nào đó, có thể nhận biết được chúng.
– Khả năng làm chủ cảm xúc đến phiên nó lại giúp trẻ cải thiện những kỹ năng ứng phó nói chung.
– Trị liệu được xem là việc giúp trẻ cải thiện lòng tự trọng, sự tự tin, cải thiện hình ảnh bản thân và lòng tin vào người khác.
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA LIỆU PHÁP CHƠI KHÔNG HƯỚNG DẪN
– Chuẩn bị cẩn thận để giúp trẻ có lòng tin vào việc trị liệu
– Xây dựng một mối quan hệ sâu sắc, tin cậy và có tính chấp nhận
– Cho phép trẻ tự lựa chọn chủ đề và các trọng tâm trong hoạt động chứ không do nhà trị liệu lựa chọn sẵn
– Nhà trị liệu có khả năng thấu cảm và phản ảnh lại những cảm xúc, những ý nghĩ theo một cách thức không gây sợ hãi cho trẻ
– Nhà trị liệu sử dụng chính những cảm xúc và ý nghĩ của mình một cách hài hòa để đáp ứng lại với những hành vi và cảm xúc mà trẻ thể hiện
– Thiết lập những giới hạn về hành vi của trẻ sao cho những giới hạn này uyển chuyển tùy theo trình độ phát triển và cảm xúc của trẻ
BS. Nguyễn Minh Tiến ( Dịch thuật)
Nguồn : www.tamlytrilieu.com