Tác giả: Lê Khanh

  • Thước đo Thành Đạt

    Thước đo Thành Đạt

    AQ (Adversity Quotient) là chỉ số đo khả năng đối xử/quản lý nghịch cảnh, khó khăn, stress, gọi tắt là chỉ số vượt khó.

    Bên cạnh những đại lượng quá quen thuộc như IQ (chỉ số thông minh) hay EQ (chỉ số cảm xúc), AQ hiện được coi là một trong những chỉ số định lượng các phẩm chất tạo nên thành công của con người.

    Bạn thuộc dạng thông minh nào?

    IQ đã lỗi thời?

    Bạn tự hào về chỉ số IQ (Intelligence Quotient – chỉ số thông minh) của mình. Nó có thể thể hiện trí thông minh “thô” của bạn, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, nó chỉ là 1 yếu tố nhỏ tạo nên thành công.

    Manh nha hình thành từ năm 1912, khái niệm IQ đã “thống trị” khá lâu trong quan niệm về thước đo phẩm chất dẫn đến thành công của con người. IQ, theo quan niệm phổ thông, thường được mặc định song hành với khả năng tư duy. Tuy nhiên, sau này, nhà tâm lý học Howard Garner đã mở rộng khái niệm IQ, khi chứng minh sự tồn tại của 8 dạng thức thông minh khác nhau và các yếu tố này đều ảnh hưởng đến thành công của một người.

    Năm 1995, Daniel Goleman đã giới thiệu 1 khái niệm mới: Năng lực xúc cảm (EQ – Emotional Intelligence) như một yếu tố cơ bản dẫn đến thành công. Sự phát hiện này giải thích tại sao 1 số người không thông minh lý tính (IQ) nhưng có sự nhạy cảm cao lại thành công hơn những người có chỉ số IQ cao.

    Năm 1997, nhà tâm lý học người Mỹ Paul Stoltz lần đầu tiên đưa ra 1 khái niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn sách “Adversity Quotient: Turning Obstacles into Opportunities” (AQ: Xoay chuyển trở ngại thành cơ hội). Trong đó, ông định nghĩa, AQ là đại lượng đo khả năng đối diện và xoay sở của một người trước các thay đổi, áp lực và các tình huống khó khăn.

    Trong cuốn sách xuất bản sau đó, Adversity Quotient @ Work, bàn kỹ hơn về vấn đề tương tự, ông giải thích cụ thể hơn cách thức áp dụng khái niệm AQ, để có thể mang lại lợi ích.

    Tác giả khẳng định, AQ giải thích tại sao một số người không hẳn thông minh, hay được giáo dục tốt, đồng thời thiếu hiểu biết xã hội, mà lại thành công trong khi nhiều người khác thất bại.

    Được viết ra trên cơ sở tích luỹ kinh nghiệm thực tế từ nhiều nghiên cứu với hàng ngàn giám đốc điều hành và nhân viên trong hàng trăm lĩnh vực kinh doanh đa dạng, cuốn sách này đã nhanh chóng trở thành handbook (sổ tay) bí quyết thành công ở nhiều tập đoàn, tổ chức.

    1. Chỉ số thông minh (IQ INTELLIGENCE QUOTIENT)

    IQ là chỉ số thông dụng nhất trong các loại chỉ số đánh giá về mặt nhân lực. Kiến thức kỹ thật cơ bản và kỹ thuật sống cơ bản liên quan đến lĩnh vực học tập để các chỉ số thông minh như : toán và khoa học ngày càng được nâng cao.

    1. Chỉ số cảm xúc (EQ EMTIONAL QUOTIENT)

    EQ là chỉ số được công nhận là công cụ quan trọng trong việc dự đoán khả năng thành đạt. Người có EQ tốt là người nhận thức và chế ngự tốt các cảm xúc của mình và của người khác, có lòng cảm thông, luôn luôn biết làm mới cảm xúc, biết phân biệt các cảm xúc tốt và xấu, có khả năng giao tiếp xã hội thuần thục. Từ đó mới có thể thúc đẩy tinh thần làm việc tập thể và thiết lập được các mối quan hệ giữa cá nhân với nhau nhằm đạt được hiệu quả như ý muốn

    1. Chỉ số sáng tạo (CQ CREATIVITY QUOTIENT)

    Sáng tạo là học hỏi, suy tư để tìm ra các giải pháp mới tốt hơn, hiệu quả hơn. Tinh thần sáng tạo là một tiền đề mũi nhọn cho cả quá trình đổi mới. CQ phục vụ cho những cải thiện và cách tân liên tục, có thể tạo ra và tăng thêm giá trị cho sản phẩm, cho dịch vụ, cho ngay chính công việc chúng ta đang làm. CQ là một nguồn lực vĩ đại cho lợi thế cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu.

    1. Chỉ số vượt khó (AQ ADVERSITY QUOTIENT)

    AQ (Adversity Quotient) là chỉ số đo khả năng đối xử/quản lý nghịch cảnh, khó khăn, stress, gọi tắt là chỉ số vượt khó.

    Paul Sloltz đã phát triển khá nhiều ý tưởng của mình từ những nhà tâm lý học đi trước, như Abraham Maslow, tác giả của tháp Maslow nổi tiếng; từ Martin Seligman, tác giả của sách “Học lạc quan”, và Stephen R. Covey, tác giả của “7 thói quen của người thành đạt”.

    Nhiều nhà tâm lý đã ủng hộ rất nhiệt tình cho thuyết AQ này. Điều này góp phần khẳng định, việc lượng hóa những phẩm chất tâm lý bậc cao là một điều có thể làm được như đã từng làm với trí tuệ (IQ) và cảm xúc (EQ). Paul Sloltz cho rằng, những người có AQ thấp thường dễ buông xuôi trước nhiều vấn đề trong cuộc sống. Trong khi, những người có AQ cao sẽ ít khi đầu hàng và dễ dàng trở thành lãnh đạo trong tương lai.

    Ông phân định ra 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối diện với những khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Đó là: Quitter, Camper và Climber.

    Theo 1 cuộc điều tra xã hội học, với hơn 150.000 lãnh đạo doanh nghiệp trong hầu hết các lĩnh vực trên thế giới, có nhiều người thuộc tuýp Quitter (5 -20%), phần lớn thuộc dang Camper (65-90%), và chỉ có rất hiếm người thuộc dạng Climber.

    1. Quitter: Là những người dễ buông xuôi. Họ dễ dàng nản chí, dễ dàng từ bỏ việc theo đuổi 1 công việc, 1 dự định và cao hơn là 1 mục đích sống. Và, kết quả là thường giữa đường đứt gánh, và nhận thất bại, hoặc kết quả không như ý.
    2. Camper: Là những người chịu khó, làm việc chăm chỉ, có ý thức phấn đấu rèn luyện bản thân, và sẽ làm nhiều thứ để đạt tới 1 mức độ nhất định nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ dễ hài lòng và thoả hiệp với bản thân để thấy như vậy là đủ.
    3. Climber: Là những người có sự kiên định và hoài bão lớn. Họ luôn học hỏi, rèn luyện bản thân, nỗ lực cố gắng để đạt tới những mức độ tốt nhất có thể trong khả năng. Họ cũng thường là tuýp người không chấp nhận 1 tình thế sẵn có, và tìm cách xoay sở để cải thiện nó tốt hơn.

    Theo đó, ông coi chỉ số đo khả năng vượt qua những điều kiện khó khăn là yếu tố lớn nhất trong những phẩm chất tạo nên sự thành công cho con người.

    Theo Paul Sloltz, chỉ số AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, năng lượng, sức khoẻ lý tính, xúc cảm và hạnh phúc của một người. Nó cũng chính là một chỉ báo về 4 mức độ cao thấp của bản lĩnh sống:

    1. Đối diện khó khăn
    2. Xoay chuyển cục diện
    3. Vượt lên nghịch cảnh
    4. Tìm được lối ra

    AQ là đại lượng có thể được rèn luyện để “cải thiện, nâng cấp”.

    Còn bạn, đã bao giờ bạn tự định lượng chỉ số AQ của mình?

    Bạn có thể làm:

    1. Have tagets and goals – Sống có mục đích và đạt được mục đích
      2. Smile always – Luôn luôn mỉm cười
      3. Share the happiness with others – Hãy chia sẻ hạnh phúc với người khác
      4. Willing to help others – Sẵn sàng giúp đỡ người khác
      5. Keep a childlike heart – Hãy giữ cho tâm hồn luôn trong sáng
      6. Get on well with different kinds of people – Hoà đồng với tất cả mọi người
      7. Keep the sense of humor – Có được sự thông minh & hóm hỉnh
      8. Keep calm when surprrise comes – Giữ được bình tĩnh trong mọi tình huống
      9. Forgive others – Biết tha thứ cho người khác
      10. Have some really good friends – Nên có một vài người bạn chân tình
      11. Always work in a team – Luôn luôn làm việc với tinh thần đồng đội
      12. Enjoy the family gathering time – Dành thời gian vui vẻ cùng gia đình
      13. Be confident and proud of yourself – Có sự tự tin và kiêu hãnh của bản thân
      14. Respect the weak – Đừng nghĩ mình hèn kém
      15. Indulge yourself sometimes – Hãy đeo đuổi đam mê của mình
      16. Work from time to time – Làm việc quên thời gian
      17. Be brave and courageous – Có niềm tin và sự can đảm
      18. Finaly don’t be a money grubber- Cuối cùng đừng lo lắng về tiền bạc
      ST/2013
  • Bí quyết giúp trẻ phát triển

    Bí quyết giúp trẻ phát triển

     Không cần nhạc cổ điển, băng ngoại ngữ hay những đồ chơi thông minh đắt tiền, bạn có thể giúp bé phát triển trí não từ những điều rất nhỏ hằng ngày, từ hát, kể chuyện hay làm trò cho con cười.

     Có thể bạn không để ý đến nhưng những điều giản dị dưới đây sẽ giúp bé phát triển trí thông minh:

    Giao tiếp bằng mắt. Hãy nhìn thẳng vào mắt con bất cứ khi nào bé thức. Những em bé biết nhận mặt từ sớm, nhất là khuôn mặt của bố mẹ. Mỗi lần nhìn chăm chú vào bạn, bé đã học được khả năng ghi nhớ.

    Cho bé soi gương. Đầu tiên, bé có thể nghĩ người trong gương là một em bé khác và trẻ sẽ rất thích thú học vẫy tay hay mỉm cười với “bạn” mình

    Cù ngón chân: Thực tế, bạn có thể cù toàn thân bé. Tạo ra tiếng cười là bước đầu tiên để bạn giúp con phát triển khả năng hài hước.

    Cùng khám phá: Bố có thể bế, địu hoặc cõng con đi dạo và thuật lại những gì mình thấy với bé, chẳng hạn: “Kia là một chú chó con” hay “Con nhìn cái cây to kìa”, hoặc “Con có nghe thấy tiếng xe đang chạy không”. Đây là một trong những cách xây dựng vốn từ cho bé.

    Hát cho bé nghe: Bố mẹ có thể hát những bài ngắn, giai điệu dễ nghe hoặc tự “phổ nhạc” khi trò chuyện, lúc chăm sóc con (chẳng hạn: Mẹ thay tã cho bé, mẹ yêu bé nhất nhà…). Một số nghiên cứu cho thấy việc nghe những giai điệu liên quan đến khả năng học toán của bé.

    Biến mình thành “sân chơi” cho bé: Bố có thể nằm dưới sàn nhà và để cho con bò, trườn qua người. Trò chơi vui vẻ này sẽ giúp bé học được khả năng phối phợp và kỹ năng giải quyết vấn đề

    Mỗi khi chuẩn bị làm gì, bạn hãy nói với con, chẳng hạn như thông báo: “Bây giờ mẹ sẽ tắt đèn nhé” trước khi gí công tắc. Cách đơn giản này sẽ dạy con bạn hiểu về nguyên nhân và kết quả.

    Làm cho con vui thích bằng cách thổi nhẹ vào mặt, cánh tay hay bụng bé. Chú ý đến hơi thở của bạn và nhìn phản ứng của bé

    Đọc đi đọc lại một cuốn truyện. Các nhà khoa học khẳng định các em bé ngay từ 8 tháng có thể nhận ra chuỗi từ ngữ nếu được nghe câu chuyện liên tục 2-3 lần. Cách này cũng giúp bé học ngôn ngữ tốt hơn.

    Chơi “ú- òa”: Che mặt đi và mở ra cùng với những tiếng “ú-òa” sẽ mang lại tiếng cười cho bé và giúp con bạn học về một vật có thể biến mất rồi trở lại sau đó.

    Cho bé trải nghiệm những cảm giác khác nhau: Bạn có thể dùng những miếng vải sạch với chất liệu khác nhau như lụa, bông, len, lanh rồi lần lượt nhẹ nhàng chạm vào má, chân và bụng bé đồng thời diễn tả những cảm giác khi ấy.

    Tạo cuốn album gia đình bao gồm các bức ảnh về những người thân, họ hàng và để bé xem. Điều này sẽ giúp con bạn học cách ghi nhớ. Khi bà gọi điện, hãy chỉ cho bé hình của bà lúc con nghe điện thoại.

    Bạn có thể thúc đẩy kỹ năng vận động của con bằng cách đặt chiếc đệm sofa, gối, hộp hay đồ chơi lên sàn và sau đó chỉ cho con bạn cách để trườn qua, luồn xuống hay bò quanh

    Bắt chước bé: Khi con lớn hơn một chút, thỉnh thoảng, bạn làm theo những hành động của bé như tạo âm thanh ngộ nghĩnh, đi giật lùi hay cười. Cách này giúp tăng khả năng sáng tạo của trẻ

    Tạo ra khuôn mặt hài hước: Phồng má, để cho bé chạm vào mũi bạn rồi xẹp má xuống. Hay khi hai bố con chơi trò kéo tai, bạn có thể thè lưỡi ra, giả vờ kêu tiếng một con vật nào đó. Bạn làm lại những điều này 3-4 lần, sau đó thay đổi cách thức để bé phải đoán chừng.

    Làm cuốn album về các con vật: Bạn có thể chụp hình các con thú bé yêu thích trong lần đi thăm sở thú và cho vào cuốn album. Sau đó, cả nhà cùng “đọc” và đặt những tên cái thân mật cho từng con, kèm với diễn tả âm thanh hay các câu chuyện về chúng

    Cho bé tập đếm mọi thứ, từ số viên gạch nền, số bậc cầu thang trong nhà hay số ngón chân, ngón tay của mình…

    CVTL Lê Khanh.

  • CAN THIỆP CHO TRẺ THEO PHƯƠNG PHÁP NÀO?

    CAN THIỆP CHO TRẺ THEO PHƯƠNG PHÁP NÀO?

    Hiện nay, trong việc giáo dục can thiệp cho trẻ tự kỷ có khả năng học tập, đã phổ biến rất nhiều phương pháp khác nhau. Từ những biện pháp kinh điển như ABA, TEACCH … cho đến những biện mới hơn như PECS… Tuy nhiên, có thể nói là chưa có một biện pháp nào tỏ ra hoàn hảo để có thể chỉ dùng một phương pháp là đủ. Mặc dù mỗi phương pháp đều có những chuyên viên hay phụ huynh “sùng bái” và tuân thủ theo những nguyên tắc của nó mà không áp dụng hay kết hợp những cái hay, có tính hiệu quả của những phương pháp khác nhưng rõ ràng không ai có thể chứng minh là chỉ cần duy nhất một phương pháp ABA áp dụng triệt để từ 25 – 40 tiếng một tuần là có thể giúp cho trẻ tự kỷ phát triển, mà hầu như trong bất cứ trường hợp nào, một sự tổng hợp ( Eclecticism) có chủ đích giữa các phương pháp sẽ là một liệu pháp hiệu quả cho trẻ.

    Từ tổng hợp “eclecticism” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “eklektos” hay “eklektikos” có nghĩa là sự sàng lọc và là sự lựa chọn tốt nhất. Phương pháp tổng hợp là sự hội tụ và ứng dụng lý thuyết hay ý tưởng của nhiều trường phái can thiệp tự kỷ khác nhau. Chúng ta có thể kết hợp phương pháp ngồi sàn (floortime), hình ảnh của PECS, thời khóa biểu của TEACCH, và những phương pháp trị liệu khác về ngôn ngữ để dạy trẻ tự kỷ biết giao tiếp xã hội, trao đổi cảm xúc và ngôn ngữ hai chiều. Có thể hiểu rằng một chương trình Tổng hợp là sự trộn lẫn một chút phương pháp TEACCH của Eric Schopler, một chút ABA của Lovaas, một chút phương pháp ngồi sàn của Greenspan, và một chút phương pháp trị liệu cảm giác của Jean Ayres …

    Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ là chọn cái gì và tổng hợp như thế nào để có được một kế hoạch hiệu quả nhất cho trẻ tự kỷ. Chúng ta hiểu rằng, sự rối loạn cơ bản nhất của trẻ là về phương diện giao tiếp và sự bộc lộ rõ ràng của nó là những khó khăn trong ngôn ngữ của trẻ, từ cách phát âm cho đến việc sử dụng từ ngữ và ngữ pháp. Đó là cái ngọn hay cái lộ ra cho thấy một sự rối loạn cơ bản trong quá trình tương tác với những người chung quanh mà quan trọng nhất là đối với phụ huynh qua những cái nhìn thờ ơ và những âm lời vô nghĩa, lặp lại.

    Trước đây một nhà Tâm lý là Bettlehem trong cuốn: Thành trì bỏ ngỏ (The Empty Fortress – 1967 ) đã cho rằng sự bỏ bê con cái, cư xử lạnh lùng ít giao tiếp của những “ bà mẹ vô cảm” (refrigerator mother) là nguyên nhân gây ra chứng tự kỷ điển hình ( Classic autism ) nơi trẻ nhỏ. Quan điểm này mặc dù đã được chứng minh là hoàn toàn sai lầm, nhưng tiếc thay cho đến ngày nay vẫn còn nhiều nhà chuyên môn khi đứng trước tình trạng chậm nói, không giao tiếp của trẻ tự kỷ thì vẫn khuyên rằng, bà mẹ cần bỏ thì giờ chơi với con nhiều hơn, nói nhiều hơn với trẻ… như gián tiếp cho rằng từ trước tới nay, vì ít giao tiếp với mẹ nên trẻ mới chậm nói. Ngược lại, cũng không thiếu các bà mẹ lấy làm ân hận vì đã ít quan tâm đến con nhiều hơn, đến khi trẻ bị “bệnh tự kỷ” thì mới biết và sẵn sàng bỏ hết công việc, theo trẻ 24/24 để tập nói cho trẻ.

    Xuất phát từ quan điểm: Trẻ chậm nói vì ít được giao tiếp, điều này không sai nhưng lại dẫn đến nhận thức là chỉ cần tập nói, hay “trị liệu ngôn ngữ” cho trẻ nói được là coi như thành công và khi đưa trẻ đến các chuyên viên, giáo viên… phụ huynh chỉ có một yêu cầu là làm sao tập cho con họ nói được ! Cái quan điểm “ đau đâu chữa đó – thủng đâu vá đó” không phải là sai trong trường hợp bệnh lý hay với một số học sinh học kém. Nhưng với trẻ tự kỷ, thì việc chậm nói, hay chỉ biết nói linh tinh, nói lập lại… chỉ là một biểu lộ cho sự rối loạn toàn bộ về giao tiếp mà xuất phát từ việc không nhận biết chính mình, không làm chủ được cảm xúc, giác quan và cơ thể. Từ đó cho thấy, việc can thiệp cho trẻ phải là một giải pháp toàn bộ và tổng hợp dựa trên chính khả năng nhận thức của trẻ, với nhiều biện pháp và nhiều cách tác động khác nhau.

    Có thể thấy rằng, trước đây thì các phụ huynh và cả các chuyên viên, giáo viên…lo lắng vì không biết can thiệp cho trẻ bằng phương pháp gì, còn ngày nay với nhiều phương pháp khác nhau và hàng núi thông tin trên mạng internet hay qua sách vở thì phụ huynh lại hoang mang không biết chọn cho con mình phương pháp nào. Đi học về ABA thì thấy phương pháp này hay quá, về nhà áp dụng một thời gian thấy chưa hiệu quả, lại đi học về TECCH, rồi có người đi học về RDI, về PECS… lại lúi húi tập cho con những kỹ thuật riêng lẻ của từng biện pháp mà họ học được một cách lõm bõm qua nhiều nguồn khác nhau. Sau một thời gian dài, với các biện pháp theo kiểu “đứng núi này – trông núi nọ” và trước sự biến đổi rất chậm của trẻ, họ bắt đầu thất vọng để lại tiếp tục trông chờ một biện pháp “thần kỳ” hơn.

    Cũng có nhiều phụ huynh, vì nhiều lý do khác nhau từ việc ‘chối từ” không muốn xác nhận con mình là tự kỷ, cho đến việc cho rằng phải là chuyên gia, phải là các giáo viên chuyên nghiệp với kinh nghiệm và kỹ thuật cao, mới có thể can thiệp cho con mình, nên đã không muốn, không cần quan tâm đến việc tập luyện để can thiệp cho con trong chính gia đình mình mặc dù nhiều nhà chuyên môn đã chứng minh rằng, việc can thiệp cho trẻ trong khuôn khổ gia đình thường có hiệu quả hơn rất nhiều việc đưa trẻ đến các trung tâm can thiệp chuyên biệt hay phó thác cho các giáo viên dạy kèm.

    Có nhiều phụ huynh từ các tỉnh không có giáo viên hay trường lớp đã phải bỏ hết công ăn việc làm, lên các thành phố lớn thuê nhà, thuê phòng gần một trường chuyên biệt để thuận tiện cho con theo học bán trú. Rồi sau giờ học, do điều kiện phòng trọ, nhà thuê chật hẹp họ không thể tác động thêm gì nhiều cho con, mà có thể họ cũng không biết phải tác động như thế nào ! kết quả là hơn một năm theo đuổi vừa tốn kém vừa mất công vừa mệt mỏi, trẻ hầu như tiến bộ rất chậm, thậm chí là còn chậm hơn cả những trẻ chỉ can thiệp ba buổi một tuần trong vài tiếng tại gia đình với giáo viên đặc biệt hay tại một trung tâm nào đó, còn thì giờ còn lại thì phụ huynh chơi và phối hợp can thiệp với con.

    Vì thế, để có được sự hiệu quả trong việc can thiệp cho trẻ tự kỷ chúng ta cần có những yếu tố sau :
    – Một sự chẩn đoán cụ thể, chính xác trong mức cho phép về tình trạng của trẻ vì sự chẩn đoán mơ hồ, lẫn lộn giữa các dạng tự kỷ (ASD) với trẻ tăng động giảm chú ý (ADHD) cũng như không đánh giá được mức độ nặng nhẹ sẽ đưa đến những sai lầm trong can thiệp. Việc chẩn đoán này cần tiến hành trực tiếp trong ít nhất là 30 phút với một nhà chuyên môn có kinh nghiệm thông qua các biện pháp quan sát, tác động với trẻ.
    – Một chương trình phù hợp: Việc xây dựng được một kế hoạch can thiệp tổng thể theo từng giai đoạn với thời gian tối thiểu là một năm, trong đó có sự tác động của phụ huynh, sự hỗ trợ của giáo viên và sự hướng dẫn của chuyên viên.
    – Một thái độ tích cực : Cần bình tĩnh và kiên trì trong yêu thương, có sự quan tâm của bố mẹ chứ không phải những tác động mang tính bó buộc, hay chiều chuộng trong việc vận dụng nhiều biện pháp can thiệp khác nhau, tùy thuộc vào năng lực, nhu cầu và sự tiếp nhận của trẻ chứ không phải là do sự hấp dẫn hay hiệu quả của phương pháp đó ( trên một trẻ khác ).

    Một phụ huynh có năng lực trong việc can thiệp cho con cũng giống như một người đầu bếp giỏi, biết cách chế biến các loại món ăn theo ba tiêu chuẩn : Ngon, bổ và rẻ ! Người đầu bếp không thể bắt chước cách nấu của người khác, cũng không thể tốn quá nhiều tiền vào việc mua các nguyên liệu hay đầu tư các dụng cụ làm bếp đắt tiền dù chất lượng của công cụ là phải tốt và chất lượng của nguyên liệu là phải tươi, ngon. Nhưng cái đầu tư cần nhất vẫn là kinh nghiệm chế biến và tấm lòng muốn phục vụ người ăn để có được một món ăn ngon.

    CVTL. Lê Khanh.

  • Xây dựng kế hoạch can thiệp cho trẻ đặc biệt

    Xây dựng kế hoạch can thiệp cho trẻ đặc biệt

    Một kế hoạch can thiệp là một chương trình dựa trên những nguyên tắc giống nhau, kỹ thuật như nhau nhưng các biện pháp tác động với trẻ, các phương pháp vận dụng cho trẻ sẽ có sự khác biệt tùy theo mỗi trẻ ( tình trạng – năng lực – nhận thức ) và phải được vận dụng một cách  linh hoạt cùng với sự phát triển của trẻ trong quá trình can thiệp.

    (more…)

  • Lớp  Huấn Luyện Giáo Viên Đặc Biệt Khóa II

    Lớp Huấn Luyện Giáo Viên Đặc Biệt Khóa II

    Phòng Tư vấn Tâm lý Gia Đình & Trẻ em tiếp tục mở Lớp Huấn luyện Giáo viên đặc biệt khóa II – Để đáp ứng nhu cầu can thiệp giáo dục trẻ đặc biệt với các giáo viên muốn nâng cao nghiệp vụ và bổ sung các kinh nghiệm thực tiễn.

    (more…)

  • Tự Kỷ là Hội chứng – Không Phải là Bệnh hay Nghiệp

    Tự Kỷ là Hội chứng – Không Phải là Bệnh hay Nghiệp

    Chỉ trong một thời gian ngắn, trên một trang báo mạng “vô danh tiểu tốt” bỗng dưng làm xôn xao dư luận bằng hai bài viết và một bài phỏng vấn chuyên gia – đều xoáy vào một đề tại không có gì là mới, nhưng lại luôn nóng bỏng : Chữa bệnh cho trẻ Tự kỷ.

    (more…)

  • Chăm sóc trẻ sơ sinh

    Chăm sóc trẻ sơ sinh

    Trong hai tháng đầu đời, bé hầu như thụ động trong mối quan hệ với mẹ. Vì vậy các bà mẹ cần biết cách để tác động, giúp bé phát triển hài hòa về tâm lý nhất là khả năng phát triển về giác quan và vận động, làm nền tảng cho sự phát triển ngôn ngữ sau này.

    (more…)

  • HẠNH PHÚC NHỜ TẬP LUYỆN

    HẠNH PHÚC NHỜ TẬP LUYỆN

    TTCT – Một trong những mong muốn chung của mọi cư dân trên hành tinh này là sống hạnh phúc, không cần giải thích. Nhưng nếu phải kể ra lý do thì sẽ có những nhà khoa học bảo vì hạnh phúc giúp người ta sống khỏe hơn.

    (more…)

  • Tình trạng Rối nhiễu Tâm lý ở trẻ em

    Tình trạng Rối nhiễu Tâm lý ở trẻ em

    Rối nhiễu tâm lý được hiểu là một tình trạng sang chấn về mặt tâm lý khiến trẻ em có những phản ứng bất ổn về mặt tâm lý, có thể kéo theo những khó khăn về thể chất hay thần kinh ( các bệnh Tâm thể hay tình trạng mất ngủ, bỏ ăn … ) Các sang chấn nay do những tác động từ bên ngoài gây ra cho trẻ, và có thể phòng ngừa hay can thiệp.

    (more…)