Tác giả: Lê Khanh

  • Năm chuyên gia tâm lý hàng đầu

    Năm chuyên gia tâm lý hàng đầu

    Tâm lý luôn đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định chất lượng cuộc sống của mỗi người, chỉ cần bạn căng thẳng, vướng mắc một vấn đề nào đó mà không thể giải bày thì nguy cơ gặp phải tình trạng trầm cảm hay rối loạn tâm lý là rất cao. Tuy nhiên để tìm được cho mình một bác sĩ chuyên khoa thật sự giỏi, để giúp bạn vượt qua là điều không dễ dàng. Chính vì vậy, ngay sau đây hãy cùng tham khảo qua danh sách 5 Bác sĩ uy tín khám tâm lý tại TPHCM.

    1. PGS.TS Huỳnh Văn Sơn

    Trên 20 năm giảng dạy tại trường Đại học và hơn 15 năm bén duyên với vai trò diễn giả… PGS.TS Tâm lý Huỳnh Văn Sơn được đông đảo khán giả ở mọi lứa tuổi yêu mến. TS. Huỳnh Văn Sơn còn được biết đến không chỉ là một Giảng viên Xuất sắc của Khoa Tâm lý học tại các trường Đại học, Cao đẳng mà còn được biết đến với một thương hiệu là một Diễn giả chuyên nghiệp, một Chuyên gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực Đào tạo và phát triển kỹ năng con người…
    Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn được xem là một trong 5 Bác sĩ uy tín khám tâm lý tại TPHCM, ông là Chuyên viên Tư vấn trong các Chuyên mục Tư vấn Tâm lý của Tạp chí Mẹ yêu Bé, Báo Phụ Nữ Tp.HCM, báo Tuổi Trẻ, báo Mỹ Thuật… Tư vấn trên Tuổi Trẻ online, trang web Girlspace… Chuyên gia Hướng dẫn các Thí sinh các Cuộc thi Người Đẹp và Hoa hậu Việt Nam phần giao tiếp ứng xử, biểu diễn…
    Trung tâm Đào tạo và Chăm sóc Tinh thần Ý Tưởng Việt, 225/11 Nguyễn Đình Chiểu, P.5, Q.3, TP.HCM

    2. Tiến sĩ tâm lý Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu

    Tiến sĩ tâm lý Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu, Khoa Tâm lý – Giáo dục, trường ĐHSP TPHCM. Giảng dạy bậc đại học về các chuyên ngành Tâm lý học Lứa tuổi, Tâm lý học Sư phạm, Tâm lý học Xã hội, Tâm lý học Giao tiếp…
    Tổ chức huấn luyện hoặc trực tiếp huấn luyện kỹ năng làm việc cho hơn 20 tổ chức – doanh nghiệp trên địa bàn Tp.HCM và các tỉnh (Vietnam Airlines, Tập đoàn Tân Thành, HD Bank, Tổng Công Ty Công Nghiệp Sài Gòn, Ủy ban Nhân dân Tp. Đà Lạt, Cty CP Vinaland, Sở khoa học công nghệ Cần Thơ, Tập đoàn Baosteel, Tập đoàn Midea…)
    Tư vấn các mục tâm lý của báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên, tạp chí VTM, Mực Tím, Áo Trắng, tạp chí Thế Giới Gia Đình, tạp chí Mẹ Yêu Bé, báo Phụ Nữ Tp.HCM, báo Tiếp Thị Gia đình, báo Thế giới Văn hóa… Tư vấn trên các trang báo dành cho teen và bạn trẻ. Tư vấn trên các chuyên mục tâm lý của Đài truyền hình Việt Nam VTV, Đài truyền hình Tp.HCM HTV, Đài truyền hình Bình Dương, Vĩnh Long, Antv, VTC, BTV, …
    Cố vấn Trung tâm Đào tạo Bản lĩnh sống Sư Tử Trẻ, tại Tầng 5, tòa nhà Hà Đô, 20, Phan Văn Trị, P.10, Gò Vấp, Tp.HCM

    3. ThS tâm lý Tô Nhi A, một trong 5 Bác sĩ uy tín khám tâm lý tại TPHCM

    ThS tâm lý Tô Nhi A là một trong 5 bác sĩ uy tín khám tâm lý tại TPHCM, đồng thời bà cũng là Giảng viên môn các môn Giáo dục học đại cương, Lý luận Giáo dục, Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp (Cao Đẳng Sư Phạm Trung Ương TP.HCM) ; Giảng viên môn Kỹ năng mềm (ĐH KT Công Nghệ TP.HCM  – Hutech, Nhà văn hóa Sinh Viên, Nhà văn hóa Phụ Nữ); Giảng viên môn Kỹ năng giao tiếp truyền thông (Hutech); Giảng viên môn Tâm Lý Học Đại Cương (ĐH Sư Phạm TP.HCM – Trường Cao Đẳng Bách Việt); Tâm Lý du khách và kỹ năng giao tiếp (Cao Đẳng Văn Hóa – Nghệ Thuật – Du Lịch Sài Gòn)…
    Hiện nay, ThS tâm lý Tô Nhi A đang công tác Trường Cao Đẳng Sư Phạm Trung Ương TP.Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng là UV Ban chấp hành TW Hiệp hội Những người Lao động Sáng tạo Việt Nam và Cố vấn Trung tâm Đào tạo Bản lĩnh sống Sư Tử Trẻ.

    4. Chuyên gia tâm lý Lê Khanh

    Chuyên gia tâm lý Lê Khanh đã từng Tu nghiệp về Tâm lý lâm sàng trẻ em tại Cộng hòa Pháp được đào tạo về Trị liệu Hệ thống gia đình do Đại học Catholique Louvain APSY – Bỉ. Ông đã làm việc và cộng tác tại Trung tâm Sức Khoẻ Tâm Thần TP.HCM; Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý trẻ em NT; Trung tâm Nghiên cứu công tác xã hội & phát triển cộng đồng TP.HCM; Hội Tâm lý – Giáo dục TP.HCM ; Hội Bảo Trợ Trẻ em TP.HCM ( Dự án Tương Lai – tổ chức Education for Development); Mái ấm Ánh Sáng Q.10 ( Tổ chức Christina Noble ); Trung tâm Y Tế Quận 7 ( Tổ chức World Vission); Phòng Khám Đa Khoa Tân Định; Trường Quản trị Cuộc đời LIMA ( tổ chức giáo dục Pace).
    Chuyên gia tâm lý Lê Khanh hỗ trợ các dịch vụ Chẩn đoán – Tư vấn và Can thiệp – trị liệu các rối nhiễu tâm lý trẻ em & thanh thiếu niên như: Hội chứng Tự Kỷ – Hội chứng Hiếu động kém chú ý ( ADHD); Tình trạng chậm nói – Chậm khôn – Rối loạn nhận thức, hành vi; Không nhớ mặt chữ/số – không tập trung – lo âu – hung hăng…; Các khó khăn trong quan hệ giao tiếp… Hiện nay ông đang làm việc tại Phòng khám Tâm lý trẻ em & Gia đình – 174 Lê Quang Định P.14 Q. Bình Thạnh.

    5. ThS Tâm lý Phan Thị Mai Quyên
    Một trong 5 bác sĩ uy tín khám tâm lý tại TPHCM, trong đó phải kể đến Thạc sĩ tâm lý Phan Thị Mai Quyên tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học. Bà là người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực điều trị tâm lý, là Chuyên viên tâm lý trị liệu dành cho trẻ tự kỷ, trường chuyên biệt Ước Mơ, Quận 10; Chuyên viên tư vấn tâm lý Trung tâm tư vấn tâm lý – giáo dục – thể chất (Tổng đài 08.1080); Chuyên viên tâm lý trị liệu, tham vấn tâm lý tại Bệnh viện Nhân dân 115. Hỗ trợ tâm lý cho trẻ tự kỷ, tham vấn cho tổng đài 08.1088, làm việc tại Công ty Uniclever, đặc biệt là hỗ trợ về tâm lý thanh niên công nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
    Hiện nay, Thạc sĩ tâm lý Phan Thị Mai Quyên đang công tác tại Phòng Tâm lý trị liệu của Bệnh viện Nhân Dân 115 – Số 527 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10, TPHCM.

  • CAN THIỆP HAY CÙNG CHƠI ?

    CAN THIỆP HAY CÙNG CHƠI ?

    NHỮNG NGỘ NHẬN

    Rõ ràng là các trẻ tự kỷ đều có những khó khăn về giao tiếp, ứng xử và ngôn ngữ. Điều đó đã hạn chế rất nhiều việc đi học hay hòa nhập xã hội của các em. Thế nhưng, cũng có những người Tự kỷ lại có những khả năng xuất chúng.

    Stephen Wiltshire, 34 tuổi, rất nổi tiếng là chiếc camera sống.  Anh ta có thể vẽ lại những thiết kế kiến trúc và cảnh quan chi tiết tới từng ngọn cỏ — dù chỉ mới quan sát khu vực đó một lần. Wiltshire đã từng vẽ lại quan cảnh của Tokyo, Rome và London dựa vào trí nhớ sau khi bay trên bầu trời thành phố bằng trực thăng. Wiltshire là một thiên tài tự kỷ. Anh ta có một khả năng nhận biết bất thường cho phép anh ta nhớ lại từng chi tiết của bản thiết kế, các con số và các số liệu đo đạc thường là quá khó nhớ với người khác. Khái niệm người tự kỷ là một thiên tài đã được phổ biến đi từ nhân vật Dustin Hoffman trong bộ phim “Rain Man.”

    Marion công nhận có một bộ phận nhỏ những người tự kỷ có một số khả năng đặc biệt, nhưng không thể gán đặc tính này cho đại bộ phận người tự kỷ. Ông nói số đông người tự kỷ chẳng hề có một tài năng hay kỹ năng gì làm họ xuất chúng cả. Nhưng đó là sự khác biệt ở từng trẻ cũng như trẻ bình thường. “Mỗi trẻ đều có điểm mạnh và yếu cả,” Marion nói. “Quan trọng là tất cả trẻ tự kỷ đều phải được đánh giá nhiều mặt bởi các chuyên gia y học đã có kinh nghiệm đánh giá kỹ năng và những khiếm khuyết của trẻ, để định ra một kế hoạch dạy trẻ đem lại lợi ích tối đa.”

    Người ta thường nghĩ rằng một trong những khó khăn lớn nhất của trẻ Tự kỷ là khi đi học, trẻ không thể tạo được các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mà cần phải có các trường chuyên biệt cho các em. Nhưng thực ra, với những trẻ tự kỷ ở mức độ trung bình thì các em vẫn có thể có bạn bè trong số trẻ bình thường trong trường, lớp của mình và việc theo học ở các trường bình thường lại là cơ hội cho các em “thực hành” các bài tập giao tiếp trong chương trình can thiệp tại gia đình của mình.

    Do có những hành vi kỳ quặc và đôi khi là những cơn bùng nổ, nên trẻ tự kỷ, nhất là những trẻ lớn hay người tự kỷ đã trưởng thành thường bị xem là mối đe dọa cho xã hội. Đây cũng là một thách thức không nhỏ, nó khiến cho các em HS có thể có thái độ cô lập hay tẩy chay người bạn tự kỷ của mình. Tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể bộ phận những người tự kỷ, thì số người dính vào tội phạm là rất nhỏ, Nếu người tự kỷ nào đó có ra tay làm gì thì có thể là họ cảm thấy khó chịu hoặc bị kích động quá mức, chứ không nhất thiết là từ động cơ đen tối.

    Cũng xuất phát từ việc cho rằng người tự kỷ không cảm nhận được hay thể hiện bất kỳ một cảm xúc nào, nên họ sẽ không thể hiểu được cảm xúc của người khác. Nhưng thực ra, người tự kỷ vẫn có những cảm xúc và cảm nhận về cảm xúc nhưng theo một cách khác mà thôi. Vì vậy, họ có thể không phát hiện được nỗi buồn của người khác qua việc trò chuyện hay sự mỉa mai trong câu nói theo kiểu “ nói vậy mà không phải vậy” Nhưng nếu cảm xúc được truyền đạt một cách cụ thể và rõ ràng thì người tự kỷ có rất nhiều khả năng để cảm nhận được điều đó.

    Cuối cùng, có nhiều bậc phụ huynh khi con mình bị “chẩn đoán” là Tự kỷ thì thường có cảm giác như nhận một bản án chung thân và hoàn toàn mất phương hướng về việc can thiệp cho con mình. Với thì giờ hạn hẹp có thể giành cho con và với những “kiến thức – kỹ năng” hạn chế, họ cho rằng mình không thể làm gì và điều cần làm là phải tìm ra một phương pháp thần kỳ nào đó, với những chuyên gia giầu kinh nghiệm. Đó sẽ là lời giải, vì thế họ không tiếc công, tiếc của để tìm kiếm những phương pháp can thiệp, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít tiền đến cực kỳ tốn kém, thậm chí có thể cho con ra “điều trị” ở nước ngoài. Họ không nghĩ rằng, điều mà đứa trẻ cần nhất chính là khả năng giao tiếp, và chính họ là người mà đứa trẻ cần thiết lập được khả năng giao tiếp đầu tiên để từ đó, qua họ như một chiếc cầu nối trẻ với thế giới bên ngoài, đứa trẻ mới dần dần mới có thể “ mở cửa” phá bỏ tình trạng “ bế quan, tỏa cảng” về mặt tâm lý của mình để từng bước một hòa nhập với thế giới bên ngoài, không phải với những phương cách bình thường, mà là những cách thức giao tiếp của một người tự kỷ.

    Nói cách khác trẻ tự kỷ được can thiệp tại gia đình, vẫn là trẻ tự kỷ nhưng đó là một đứa trẻ có khả năng giao tiếp và học tập theo cách thức của chính nó, đê có thể phát triển chứ không phải đó là một đứa trẻ đã được “cứu vớt” hay “điểu trị” để “quay về” hay “trở lại thiên đường” của những kẻ bình thường trong vòng tay người mẹ.

    Ngoài những ngộ nhận về tình trạng và nguyên nhân, hiện nay còn có những ngộ nhận mà ta có thể gọi là cố tình, đến từ những đơn vi kinh doanh, sản xuất các loại thực phẩm chức năng chiết xuất từ các loại thảo dược như Đinh lăng, Chùm ngây.  Họ lập luận với nhiều chứng cơ khoa học, do một số nhà nghiên cứu được họ trả tiền để giới thiệu.

     

    CHA MẸ PHẢI LÀM GÌ ?

    Như đã nói trên, việc chẩn đoán và phát hiện sớm tình trạng tự kỷ ở trẻ là hết sức quan trọng, các phụ huynh có thể xem xét các dấu hiệu để phát hiện tình trạng của con em mình, nhưng để đánh giá một cách hiệu quả là nên đưa trẻ đến các trung tâm, hòng khám có uy tín với những chuyên gia tâm lý có đủ kiến thức và kinh nhiệm để nhận ra các tình trạng và mức độ khác nhau của mỗi trẻ.

    Việc chẩn đoán là cần thiết nhưng việc phải có một kế hoạch can thiệp lâu dài cho trẻ mới là điều quan trọng. Một chương trình can thiệp không nhất thiết là phải tiến hành tại các trung tâm điều trị tâm lý hay các trường chuyên biệt, mà ngay tại nhà của các em và người thầy tốt nhất cho các em không ai khác, chính là bố mẹ của trẻ tự kỷ. Như vậy, nếu đã có chương trình can thiệp tại gia đình, thì việc đưa trẻ đến các trường bình thường có phải là điều không cần thiết ?

    Thực ra, khi trẻ tự kỷ đã có được một số kỹ năng nhất định, thì việc cho trẻ đến trường là điều hữu ích, nó giúp cho các em có cơ hội “thực hành” những điều đã được bố mẹ tập luyện tại gia đình. Điều này có vẻ như ngược lại với trẻ bình thường, khi các em đến trường để tiếp thu kiến thức, và khi về nhà thì bố mẹ sẽ đánh giá hay ôn lại cho các em. Còn trẻ tự kỷ thì lại được bố mẹ “dạy” ở nhà để đến trường, khi chơi với các trẻ khác, các em sẽ từ từ vận dụng những gì mình đã được học đi học lại nhiều lần ở nhà.

    Tuy nhiên, việc thay đổi hành vi nhận thức của trẻ tự kỷ là điều không thể, vì thế việc cho các em hội nhập tham gia các hoạt động chỉ là yếu tố để các em được cư xử như một trẻ bình thường , dĩ nhiên là với một cách thức riêng theo kiểu của các em. Chúng ta không buộc trẻ Tự kỷ phải trở thành bình thường, hay có những ứng xử bình thường, mà chúng ta hãy đối xử với các em một cách bình thường, tạo cơ hội cho các em có thể chơi đùa với các trẻ em xung quanh, tham gia các hoạt động trong khả năng cho phép. Đó mới gọi là sự hội nhập một cách có ý nghĩa và giá trị nhất đối với trẻ tự kỷ.

    Để xây dựng một chương trình can thiệp với trẻ Tự Kỷ không phải là điều dễ dàng. Nhìn chung, sự can thiệp cho trẻ cần lưu ý đến các yếu tố :

    • Khả năng can thiệp sớm ngay sau khi phát hiện và đánh giá được mức độ khó khăn của trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên.
    • Khả năng phối hợp giữa nhà chuyên môn, giáo viên và phụ huynh mà trong đó phụ huynh đóng vai trò chính yếu. Đây là yếu tố quyết định cho hiệu quả của chương trình can thiệp bao gồm can thiệp tại gia đình và can thiệp với một số phương pháp và kỹ thuật khác nhau tại các cơ sở, trung tâm.
    • Khả năng cá biệt hóa, mỗi trẻ là một tình trạng là một mức độ và có những môi trường sống khác nhau. Vì thế mỗi em phải có một chương trình giáo dục cá nhân.

    Can thiệp sớm:

    Can thiệp sớm là sự hướng dẫn sớm (mang tính giáo dục) cho trẻ và gia đình trẻ. Can thiệp sớm trong 5 năm đầu có thể làm tăng chất lượng cuộc sống cho trẻ và gia đình trẻ. Đây chính là sự chuẩn bị quan trọng cho việc cải thiện các năng lực và nhận thức giúp cho trẻ hội nhập.

     

    Chương trình Can thiệp sớm giúp cho đứa trẻ phát triển :

    1. Khả năng di chuyển, vận động, nhìn và nghe.(Thể chất)
    2. Khả năng nhận thức và tiếp thu (tri thức)
    3. Khả năng hiểu lời, nói ra và diễn tả (Ngôn ngữ )
    4. Khả năng tiếp xúc và chấp nhận người khác (Quan hệ)
    5. Khả năng tự phục vụ (ăn, uống, tắm) và tự giúp mình (Thích ứng)

     

    Chương trình Can Thiệp sớm sẽ giúp gì cho phụ huynh:

    • Giúp giải đáp những thắc mắc của PH về những vấn đề trong sự phát triển của trẻ
    • Giúp PH hiểu và gần gũi với trẻ đúng mức và hợp lý hơn
    • Cải thiện tình trạng phát triển của trẻ
    • Giúp ngăn ngừa tình trạng rối nhiễu gia tăng theo thời gian.
    • Giúp trẻ có thể hội nhập vào trường lớp ( nếu can thiệp trước 3 tuổi )

    Chương trình Can thiệp sớm gồm những hoạt động gì ?

    Tùy theo tình trạng của đứa trẻ thông qua chẩn đoán , cần phải có các hoạt động sau:

    1. Hoạt động tư vấn chẩn đoán : là một hoạt động tầm soát nhằm đánh giá khả năng phát triển của trẻ – nhận ra các yêu tố nguy cơ và thuận lợi về tình trạng của trẻ, từ đó phụ huynh sẽ được tư vấn về các biện pháp can thiệp hay trị liệu cho con mình.
    2. Hoạt động huấn luyện phụ huynh: Tùy theo yêu cầu của phụ huynh –chuyên viên tâm lý sẽ chẩn đoán và xây dựng một chương trình can thiệp cho trẻ tại gia đình. Phụ huynh sẽ được hướng dẫn thưc hiện kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ để từng bước giúp trẻ phát triển theo yêu cầu.
    3. Hoạt động Can thiệp- Trị liệu: Đây là hoạt động thực hiện trong một khoản thời gian nhất định ( Tùy theo điều kiện thực tế ) để giúp phụ huynh nắm vững những kỹ năng và kiến thức trong quá trình áp dụng chương trình chăm sóc/ giáo dục/ can thiệp cho trẻ một cách thích hợp với tình trạng của trẻ và hoàn cảnh gia đình.  Hoạt động can thiệp có thể diễn ra dưới 3 hình thức :
      – Can thiệp tại một cơ sở giáo dục chuyên biệt, dành cho những em có mức độ rối nhiễu nặng , nhưng vẫn cần sự chăm sóc hợp lý của phụ huynh tại gia đình.
      – Can thiệp theo giờ tại cơ sở hay bởi một giáo viên tại gia đình , dành cho những trẻ ở mức độ trung bình nặng và trung bình. Hoạt động này cần có sự phối hợp tích cực với 3 vai trò : Giáo viên – Phụ huynh và Chuyên viên.
      – Trẻ đi học bình thường và phụ huynh hay giáo viên can thiệp thêm tại gia đình, dành cho mức độ nhẹ.

    Trong phần can thiệp, có nhiều phương pháp khác nhau, tùy theo tình trạng, mức độ và điều kiện môi trường mà chuyên viên, giáo viên và phụ huynh có thể đưa vào các phương pháp thích hợp, chứ không nên dựa vào hoàn toàn một phương pháp đặc thù nào.

     

    Chương trình Can thiệp – trị liệu bao gồm :

    • Phần Chẩn đoán tình trạng – khả năng phát triển của trẻ : Phần này do chuyên viên tâm lý sau khi thăm khám cung cấp cho phụ huynh.
    • Với sự hợp tác của phụ huynh, sẽ có phần liệt kê các nguyên tắc, kỹ thuật dành cho trẻ và cả những thông tin về khả năng phát triển của trẻ.
    • Các bài tập mà phụ huynh và giáo viên sẽ thực hiện cho trẻ
    • Một Lịch hoạt động hàng ngày được phụ huynh xây dựng tùy theo khả năng phát triển của trẻ ( phù hợp với điều kiện thực tế tại gia đình )
    • Những kế hoạch hàng tuần để vạch ra mục tiêu cụ thể cho sự can thiệp giáo dục do phụ huynh đưa ra, sau đó nếu cần thiết sẽ có sự góp ý của chuyên viên.

    Chương trình Can thiệp trị liệu là một tiến trình kéo dài liên tục, mang tính phối hợp ưu thế của các phương pháp can thiệp khác nhau,  dựa trên các nhu cầu và năng lực của trẻ . Điều đó có nghĩa là nó có thể thay đổi dựa trên  sự tiến bộ hoặc trì trệ của trẻ. Do đó Chương trình Can thiệp – trị liệu  phải được giáo viên – phụ huynh theo dõi và vận dụng thường xuyên, ít nhất 3 – 6 tháng và có thể điều chỉnh, sửa đối với sự góp ý của chuyên viên tâm lý.

    Bên cạnh các hoạt động can thiệp do Giáo viên đặc biệt phụ trách,  tùy theo tình trạng và mức độ của trẻ, với sự tư vấn của chuyên viên tâm lý, phụ huynh có thể cho các em tham gia thêm các hoạt động sau

    • Hoạt động âm ngữ trị liệu :Dành cho các em có khó khăn về ngôn ngữ nói , cách phát âm, diễn đạt . Chuyên viên âm ngữ hay phụ huynh được huấn luyện bài bản về các kỹ thuật ( Phương pháp “ More Than  Words” – Nhiều hơn lời nói hay Pecs – Picture Exchange Communication System : Hệ thống giao tiếp thông qua trao đổi bằng hình ảnh ) hoặc  AAC – Hệ thống giao tiếp tăng cường và thay thế. ) Các kỹ thuật này là những phương pháp giúp trẻ hình thành ngôn ngữ nhưng không phải là một chương trình can thiệp riêng biệt.
    • Hoạt động Tâm vận Động : Đây là một kỹ thuật đặc thù không chỉ đơn thuần là giúp trẻ phát triển về khả năng vận động thô và tinh, mà còn là một liệu pháp tâm lý giúp trẻ tái tạo lại khả năng làm chủ cơ thể, giải tỏa những ức chế, những lo lắng căng thẳng trong đời sống tâm lý của các em . Phương pháp này hiện nay chưa được phổ biến sâu rộng và cũng chưa có nhiều chuyên viên được đào tạo bài bản, mà nó lại có những biến tướng, thường bị nhầm lẫn với các kỹ thuật Hoạt động vận động trị liệu, chủ yếu dành cho trẻ bại não. Ngoài ra, nhiều giáo viên chỉ có những khái niệm sơ cấp về tâm vận động, cũng thường dùng nó như một cách để xây dựng uy tín cho cơ sở can thiệp của mình, khi nói rằng họ có một Phòng can thiệp tâm vận động.

    KẾT LUẬN

    Tiến trình phát hiện – chẩn đoán – Can thiệp – Trị liệu và hòa nhập trẻ tự kỷ có thể nói là một hành trình gian nan, chưa có hồi kết mà lại có quá nhiều những hiểu biết sai lầm , không chỉ đến từ các phụ huynh mà còn ở cả những nhà chuyên môn, cả những kẻ kinh doanh và cả giới truyền thông, với những cách gọi, cách nghĩ và cách quảng bá lệch lạc, thiếu sót, thậm chí là phản khoa học, đã gây nhiễu loạn cho cộng đồng các gia đình có con tự kỷ.

    Cho đến nay, thì cuộc chiến giữa cái đúng – cái sai, cái thật – cái giả để xác định thế nào là tự kỷ, thế nào là những biện pháp, kỹ thuật can thiệp hiệu quả vẫn còn tiếp diễn một cách thầm lặng nhưng không kém phần quyết liệt để có thể đem lại những giá trị đích thật cho các “ thiên thần bất hạnh” này.

    CVTL LÊ KHANH .

    Cố vấn chuyên môn KIDSTIME ( Hà Nội )

  • CHĂM SÓC VÀ THẤU HIỂU

    CHĂM SÓC VÀ THẤU HIỂU

    CHỨNG TỰ KỶ NGÀY CÀNG GIA TĂNG ?

    Hiện nay, cũng có một nỗi lo trong người dân, khi nhiều bậc cha mẹ không có thì giờ chăm sóc con hay môi trường quá ô nhiễm, đã làm cho tình trạng tự kỷ bùng nổ. Thế nhưng trên thực tế thì “ những tình trạng này không phải là đang lan rộng hơn, mà chỉ là do người ta có sự hiểu biết và phát hiện tình trạng này nhiều hơn mà thôi” . Bs Bod Marion , Giám đốc trung tâm đánh giá và tái hòa nhập cho trẻ em thuộc trường cao đẳng Y khoa Albert Einstein College of Medicine ở New York nói.

    Trên thế giới, tỷ lệ trẻ được phát hiện và chẩn đoán tự kỷ tăng một cách đáng kể, trong 20 năm qua tỉ lệ tăng 8-10 lần. Tại Mỹ, tỷ lệ tự kỷ năm 2013 là 1/50, tăng 30% so với năm 2012 (1/88) và trở thành một trong ba vấn đề sức khỏe nghiêm trọng sau bệnh tim mạch và ung thư .

    Ở Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XXI, hội chứng tự kỷ mới được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có con số nghiên cứu chính thức về số lượng trẻ có hội chứng rối loạn phổ tự kỷ. Nghiên cứu mô hình khuyết tật ở trẻ em của Khoa Phục hồi Chức năng Bệnh viện Nhi Trung ương giai đoạn 2000-2007 cho thấy số lượng trẻ được chẩn đoán và điều trị tự kỷ ngày càng nhiều. Số lượng trẻ có hội chứng rối loạn phổ tự kỷ đến khám năm 2007 tăng gấp 50 lần so với năm 2000; xu thế có tình trạng tự kỷ tăng nhanh từ 122% đến 268% trong giai đoạn 2004-2007 so với năm 2000.

    Đối với các bậc phụ huynh thì điều quan trọng không phải là sự phân loại các rối nhiễu, hay chẩn đoán chỉ để biết , mà là đánh giá được mức độ nặng nhẹ của tình trạng này. Vì ở mức độ nhẹ, nếu được can thiệp sớm với những biện pháp hợp lý để thay đổi hành vi và gia tăng khả năng giao tiếp của trẻ thì các em có thể phát triển gần như trẻ bình thường. Nhưng với các trường hợp nặng hay có kèm theo tình trạng chậm khôn thì chỉ có thể giúp cho trẻ được ổn định và biết cách giao tiếp hơn mà thôi. Tuy nhiên, ở mức độ nhẹ thì lại thường chỉ phát hiện khi các em đi học ở mẫu giáo, thậm chí là tiểu học. Trong khi ở các trường hợp nặng, thì lại được phát hiện sớm hơn, ngay từ khi các em được 12 – 18 tháng tuổi. Vì thế, ngay từ khi sinh ra cho đến khi được 8 tháng tuổi, thì cha mẹ nên chú ý đến các hành vi giao tiếp và khả năng phát âm của trẻ, hầu có thể tìm kiếm các dấu hiệu nguy cơ nơi con em mình, từ đó qua sự chẩn đoán và hướng dẫn của các nhà chuyên môn, thực hiện các biện pháp can thiệp tại gia đình một cách tích cực và thường xuyên, giúp trẻ giảm thiểu đến mức thấp nhất tình trạng tự kỷ nếu có.

     TỰ KỶ CÓ THỂ CHỮA KHỎI ?

    Như đã nói ngay từ đầu là cho đến nay thì khoa học vẫn chưa tìm ra một loại thuốc hay một phương pháp trị liệu nào có thể “điếu trị” hoàn toàn chứng Tự kỷ. Một số phụ huynh tin rằng với chế độ ăn đặc biệt, thuốc và các biện pháp can thiệp hành vi đã chữa khỏi chứng tự kỷ của con họ, nhưng các phụ huynh khác thử cùng chế độ can thiệp đó thì lại không thấy có kết quả. Có nhiều phương pháp điều trị được lập ra để cải thiện khả năng của người tự kỷ, nhưng chưa ai biết đến cách chữa hoàn toàn tình trạng tự kỷ.

    “Chúng ta biết là nếu can thiệp sớm cho trẻ và dùng phương pháp ABA thì chúng ta có thể cải thiện chức năng của trẻ,” một chuyên gia tâm lý là ông Marion đã nói. Phân tích hành vi ứng dụng, hay còn gọi là ABA, là một hình thức can thiệp mà trong đó có các hoạt động lặp đi lặp lại để cải thiện chức năng giao lưu và thể chất cho trẻ.

    Nhưng theo Marion, không hề có một phương cách chữa trị khỏi hẳn tình trạng tự kỷ, và còn phụ thuộc vào đánh giá của từng chuyên viên xem phương pháp trị liệu đó có đem lại lợi ích lớn nhất cho trẻ tự kỷ hay không. Với một vài ca, Marion nói, hành vi, trong đó có giao tiếp mắt và tương tác với người khác, phát triển kỹ năng ngôn ngữ, sẽ cải thiện đáng kể — nhưng những rối loạn sinh học tiềm ẩn sẽ không thể thay đổi được. “Và đó hoàn toàn không thể gọi là một cách chữa bệnh được,” ông nói.

    Thông thường, khi thấy trẻ có những dấu hiệu bất thường về hành vi và ngôn ngữ, điều lo lắng nhất của phụ huynh là con mình có bị tự kỷ hay không, mà không nghĩ rằng những rối nhiễu tâm lý khác như tình trạng chậm khôn, hay hội chứng rối loạn hiếu động kém chú ý ( ADHD) đây cũng là những vấn đề nan giải không kém gì tự kỷ. Tất cả đều cần có sự can thiệp một cách hợp lý, kiên trì và lâu dài tại gia đình. Điều quan trọng là đánh giá được mức độ nặng – nhẹ để có những biện pháp phù hợp.

    Đối với trẻ tự kỷ ở mức độ nhẹ thì ngoài những biện pháp can thiệp cần thiết tại gia đình qua một chương trình can thiệp sớm, thì các em vẫn nên được tham gia các lớp mẫu giáo bình thường. Đây là một yếu tố quan trọng giúp cho các em gia tăng khả năng bắt chước và các mối quan hệ với các trẻ bình thường khác. Đối với trẻ tự kỷ trung bình thì một hệ thống các lớp hội nhập là điều hết sức cần thiết, ở đây ngoài những bài tập phù hợp với tình trạng của các em, do các giáo viên có chuyên môn về giáo dục đặc biệt đảm trách, thì các em vẫn có điều kiện tham gia các hoạt động với các trẻ em bình thường khác. Dĩ nhiên là một chương trình can thiệp tại gia đình do cha me hay có sự phối hợp với một giáo viên, một chuyên viên tâm lý là điều quan trọng. Điều này không chỉ áp dụng cho trẻ tự kỷ mà các rối loạn khác cũng cần như vậy.

    Chỉ với các em tự kỷ nặng, chúng ta mới cần có một chương trình can thiệp tại các trường chuyên biệt, điều quan trọng là phải đến chú ý chất lượng và năng lực của các giáo viên / nhân viên của trường này.

    Cho đến nay, các trẻ Tự kỷ hay ADHD vẫn được theo học trong hệ thống trường chuyên biệt dành cho mọi chứng rối nhiễu tâm lý . Điều này chỉ có thể chấp nhận nếu trong các trường này có sự phân chia rõ ràng các lớp dành cho trẻ tự kỷ với các lớp dành cho trẻ ADHD hay cho trẻ Chậm khôn, vì 3 dạng trẻ này cần được theo học với những giáo trình khác nhau. Hiện nay, cũng có một vài trường chuyên biệt dành cho trẻ tự kỷ, vấn đề còn lại là nội dung chương trình và chi phí mà gia đình phải bỏ ra vì rõ ràng một ngôi trường tốt thì không thể có học phí rẻ, nhưng vẫn có những trường chưa tốt, mà học phí lại không rẻ chút nào! Đó là vấn đề mà phụ huynh cần phải nhận ra.

    Nhưng điều quan trọng nhất là dù ở bất kỳ cấp độ nào, sự tham gia của phụ huynh, hay những biện pháp áp dụng tại gia đình mới là điều quan trọng giúp trẻ tự kỷ có thể ổn định và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cần loại trừ những biện pháp hướng dẫn cho phụ huynh với một chi phí quá cao, vì thực chất giá trị của các biện pháp là sự kiên nhẫn, chừng mực và lâu dài cùng với tấm lòng của phụ huynh là những thứ không thể mua được với bất cứ giá nào. Còn các kỹ thuật, các công cụ, các nguyên tắc, hay giáo án chỉ là những thứ phụ thuộc và có rất nhiều cách khác nhau. Điều quan trọng là các phương pháp đó có phù hợp với tình trạng của con mình hay không, điều này chỉ có được sau những quan sát, chẩn đoán trực tiếp của các chuyên viên với đứa trẻ, để từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp với một chi phí vừa phải.

    Trong một cuộc hội thảo quốc tế về tâm lý học đường năm 2016 tại Đà Nẵng, có một báo cáo về lĩnh vực sức khỏe tâm thần với nội dung là khảo sát sự quan tâm của người dân về các loại bệnh trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần.  Kết quả là 3 loại bệnh được sự quan tâm nhất là : Trầm cảm – Tự kỷ  và Tâm thần phân liệt. Điều này cho thấy, quan điểm cho rằng Tự kỷ là một loại “bệnh tâm thần” vẫn là điều khá phổ biến dù cho đã biết bao nhiêu thông tin từ các chuyên viên đề nghị không xem tự kỷ là một căn bệnh mà là một hội chứng rối loạn phát triển lan tỏa ( sách DSM IV –TR năm 2000 ) Còn sách DSM – V ( 2013 ) thì lại xem tự kỷ là những rối loạn – suy kém trong giao tiếp xã hội.

    Nghiên cứu cho thấy có từ 75-88% trẻ Tự kỷ đã bộc lộ những rối loạn trong 2 năm đầu đời và có 31-55% biểu hiện triệu chứng trong năm đầu tiên ( Young&Brewer 2002). Như vậy có đến gần một nửa trẻ tự kỷ được chẩn đoán phát hiện trong năm đầu tiên của cuộc sống. Trong khi các chứng bệnh về tâm thần như trầm cảm và Tâm thần phân liệt là những bệnh do các yếu tố bên ngoài tác động vào trẻ khi trẻ đã có nhận thức, khiến cho một trẻ bình thường trở nên rối loạn tâm thần và có thể điều trị bằng thuốc cùng các trị liệu tâm lý cho đến khi khỏi bệnh.

    Đến nay đã có hàng loạt các cơ sở “khám chữa bệnh” hay các thầy thuốc, lang y  cố gắng gán ghép việc điều trị bằng phương pháp của mình cho các trẻ “ mắc bệnh” Tự kỷ , giúp các bé có thể  “khỏi bệnh” trở về với cuộc sống bình thường” để “ hội nhập với xã hội”. Chúng ta nên hiểu như thế nào ?

    Một trong các quốc gia có tỷ lệ trẻ tự kỷ vào hàng cao nhất thế giới là Mỹ , với tỷ lệ 1/68 trẻ ! thì tại sao cả một hệ thống các phòng thí nghiệm, các cơ sở dược phẩm và các nhà Y khoa hàng đầu trong hàng chục năm vừa qua, lại không lao đầu vào việc nghiên cứu để bào chế ra một loại thuốc hay một phương pháp trị liệu hiệu quả ? bởi vì họ hiểu điều đó là vô ích.  Do đó họ chỉ tập trung công sức vào việc hình thành các phương pháp can thiệp qua giáo dục để giúp trẻ tự kỷ phát triển khả năng giao tiếp, học tập và lớn lên với chứng tự kỷ của mình ! Thậm chí là sau hàng loạt các phương pháp ra đời , có những phương pháp thống trị hàng chục năm đã giúp cho cả trăm ngàn trẻ tiến bộ, thì cho đến nay người ta vẫn thấy cần phải có một biện pháp phối hợp giữa các phương pháp mới có thể đem lại những hiệu quả tốt hơn. Đến nay, người ta đã đưa ra được 27 liệu pháp được xem là có cơ sở khoa học ! Vậy thì sẽ chọn cái gì để dạy hay là tìm cách dạy trẻ hết các phương pháp trên cho chắc ăn?

    Đồng thời với một hệ thống đào tạo bài bản, cung cấp cho xã hội hàng loạt các chuyên viên trong các chuyên ngành, từ Vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu, hành vi tri liệu, âm ngữ trị liệu … cho đến các giáo viên giáo dục đặc biệt được đào tạo bài bản, người ta vẫn không thể phủ nhận vai trò quan trọng trong khuôn khổ một chương trình trị liệu, đó chính là năng lực và sự tác động của phụ huynh trên hành vi của trẻ,  hay nói cách khác thì phụ huynh mới chính là chuyên viên và giáo viên tốt nhất cho con mình. Vậy thì đưa con đến giáo viên và nhà trường chuyên biệt hay phụ huynh sẽ đứng ra tự xử ?

    Nếu thế thì một phụ huynh có thể tham gia một số khóa học huấn luyện về một phương pháp hay một kỹ thuật nào đó, có thể qua tận Mỹ để học trực tiếp. Sau đó quay về và mở lớp huấn luyện lại các kỹ thuật mà mình đã học ? Điều này có vẻ hợp lý, vì sau khi học thì họ sẽ về để áp dụng lên chính con mình, đem lại một số kết quả nhất định. Với kết quả đó, họ hoàn toàn có thể dạy lại các phụ huynh khác, chỉ với một điều kiện quan trọng là tình trạng của con họ giống như tình trạng của các trẻ khác ! Nhưng đáng tiếc là trên thực tế thì chưa hề có một trẻ tự kỷ nào có một tình trạng rối loạn giống với một trẻ khác, mặc dù là các biểu hiện đều có vẻ giống nhau . Nó cũng như các dấu vân tay, trông thì có vẻ giống nhau, và chỉ có 4 kiểu vân tay chính, thế nhưng với dân số là trên 7 tỷ người trên trái đất, ở mọi châu lục,  hầu như chưa có hai người có các vân tay giống hệt nhau ! Như vậy, áp dụng cùng 1 phương pháp với những kỹ thuật giống nhau để trị liệu cho những tình trạng, mức độ khác nhau, thì hiệu quả chỉ là hên xui, và cái giá để có sự hên xui thì lại không hề rẻ !

    Như vậy nếu chúng ta quyết giữ nhận thức, gọi  Tự kỷ là một chứng bệnh , để suy ra là có thể “điều trị” bằng một hay vài phương pháp nào đó, và khi thấy một phụ huynh đã “ chữa được” cho con mình  ( không biết chắc có phải tự kỷ hay không ? ) để đem con “trở lại thiên đường” như các trẻ bình thường, thì cho rằng họ có thể dạy lại cho các phụ huynh khác để các phụ huynh này mang những kỹ thuật đó về áp đặt lên con mình , rồi mong mỏi con mình cũng  có thể hết bệnh, trở lại với cuộc sống bình thường , có thể đi học hòa nhập với áo trắng quần xanh và chiếc cặp trên tay, liệu có phải là biện pháp tốt nhất ? Hay chỉ khiến cho trẻ phải ngồi trong một lớp học và cô đơn giữa một đám trẻ cùng trang lứa ?

    Một ước mơ đơn giản đẹp đẽ và hợp tình hợp lý!  vì thế mặc cho một số nhà chuyên môn, và cả một số phụ huynh, giáo viên có ý thức vẫn khản cổ kêu gọi đừng gọi tự kỷ là một chứng bệnh, hay khi chẩn đoán dù có thể cẩn thận ghi là “một chứng bệnh không chữa được”! Nhưng vẫn hình thành trong tâm thức của các bậc cha mẹ… Ừ thì bây giờ không chữa được, nhưng đã gọi đó là bệnh thì tất yếu là sẽ phải tìm ra phương thuốc! Ngay cả như cái căn bệnh thế kỷ là HIV mà còn ngăn chặn được kia mà ? Đúng là bệnh thì trước sau gì cũng có thể chữa được ! Nhưng chữa được bệnh này thì lại lòi ra bệnh khác. Còn hội chứng tự kỷ thì ngày càng có nhiều trẻ “bước vào” mà người “bước ra” thì hầu như là một thiểu số, lắm khi nếu xem lại, đánh giá và chẩn đoán một cách cẩn thận thì đó lại không phải tự kỷ, mà trẻ chỉ có một số triệu chứng giống như tự kỷ ! Vì thế có thể “chữa được”! Còn trẻ Tự kỷ thực sự thì “chưa thấy ra” !.

    Nói tới nói lui, rốt cuộc là bó tay sao ? Không – vấn đề là cách nhìn nhận và các liệu pháp tác động ! Có thể nói, điều chính yếu là phải có sự chẩn đoán xác định, sau đó là cần các yếu tố sau:

    • Một sự tìm hiểu quan sát cẩn thận một cách toàn diện trẻ để tìm ra những đặc điểm thuận lợi và khó khăn của trẻ , từ đó rút ra các biện pháp tác động phù hợp với chính trẻ ấy.
    • Một sự chấp nhận vô điều kiện các khó khăn của con mình, không tìm cách cắt đứt các hành vi rối loạn của trẻ mà hãy tìm hiểu tại sao trẻ lại làm như vậy, để tìm cách nâng đỡ, chuyển hóa cái nguyên nhân gây ra các điều đó, giúp trẻ có sự thoải mái, vui vẻ để không còn phải có những rối loạn vì lo lắng đó nữa. Điều này cần thời gian, sự kiên nhẫn và cảm thông.
    • Một môi trường sống an toàn mà trong đó trẻ được làm các điều mình thích, được khuyến khích phát triển các kỹ năng cá nhân để hình thành lòng tự tin, nhu cầu tương tác. Chính các hoạt động thường ngày tại gia đình mà ta có thể gọi đó là phương pháp “việc nhà trị liệu” sẽ là nền tảng cho một nhu cầu giao tiếp sẽ từng bước hình thành trong tâm lý trẻ.

    Như vậy một đứa trẻ “ở cõi trên” có thể từng bước “đi vào” không phải là ngôi trường học để học những luật lệ giáo điều, mà là bước vào một không gian sống của các em. Một môi trường mà các em được :

    • Thấu hiểu mọi khó khăn, nâng đỡ mọi năng lực, khuyến khích mọi sở thích.
    • Chấp nhận mọi hành vi, tôn trọng mọi thái độ, hướng dẫn mọi kỹ năng.

    Bao giờ các em được xem là một “con người tự kỷ” và chúng ta sẽ giúp cho các em không phải nỗ lực leo lên từng bậc thang để phải cố “vói lên” trên bước đường học tập. Mà đó là sự “ bước xuống” của người dạy nắm lấy tay của các em để cùng “ đồng hành” với sự tôn trọng. Thì chừng đó, chứng tự kỷ sẽ không còn là một nỗi ám ảnh khủng khiếp, không còn là một căn bệnh “chữa hoài không khỏi” mà bố mẹ có thể phải bán cả nhà đi để điều trị cho con. Bởi vì đó chỉ là một đứa trẻ “đặc biệt” khác ta !

    Cha mẹ thay vì tốn cả trăm triệu hay cả tỷ đồng để cố gắng “biến đổi” “sửa chữa” “điều trị” bằng đủ loại phương pháp “trời ơi đất hỡi” cho một điều không thể, thì hãy đầu tư một môi trường thoải mái, một không gian sống  tích cực cho các em, tại chính ngôi nhà của mình và hãy đưa các em đến sân chơi của các em chứ không phải là của người lớn với những khuôn mẫu và luật lệ,  bắt đầu với chữ “không được” và “phải làm”. Đó sẽ là nơi các em “cho phép” người lớn có thể chơi với mình qua những thứ mà mình thích ! Từ đó sẽ tạo nên một mối tương giao lành mạnh. Chính các trò chơi một cách tự do sẽ thúc đẩy mọi nhu cầu phát triển của trẻ để từng bước các em sẽ biết “cách chơi”,  và sẽ dạy phụ huynh “cách chơi” để mọi người đều hiểu “luật chơi” rôi cùng chơi với nhau, từ đó sợi giây liê lạc nối kết giữa mẹ con sẽ tái tạo, và đó là nền tảng cho một kế hoạch can thiệp hiệu quả cho đứa con thân yêu của mình.

    CVTL. LÊ KHANH

  • TƯ KỶ LÀ GÌ

    TƯ KỶ LÀ GÌ

    Hội chứng Tự kỷ được dịch từ thuật ngữ “Autism Spectrum Disorders – ASD”, để chỉ một tình trạng rối nhiễu tâm lý gây ra những trở ngại trong quan hệ, giao tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của trẻ em. Tình trạng này dù đã có ngay từ khi mới sinh ra nhưng ít khi được phát hiện, cho đến khi những rối loạn giao tiếp bộc lộ lúc trẻ bước qua lứa tuổi thôi nôi, với những biểu hiện chậm về ngôn ngữ và có các hành vi kỳ lạ với nhiều mức độ nặng, nhẹ khác nhau. Hầu như không hề có hai trẻ tự kỷ giống hệt nhau về sự rối nhiễu, và các biện pháp can thiệp cũng phải dựa trên từng cá nhân,   vì thế cho đến nay vẫn có người còn mơ hồ về việc phải chăng là trẻ tự kỷ đã “mắc phải” hay “nhiễm bệnh” trong quá trình nuôi dưỡng hay đây là một tình trạng bẩm sinh ?

    Trong quá khứ, có thể đã có rất nhiều trẻ em và người lớn có các rối loạn kiểu tự kỷ trước khi tình trạng này đươc công nhận và đặt tên. Vì thế, trong các câu chuyện cổ xưa có nói đến những “tiên đồng” rất dễ thương đến từ trên trời ( quả thực là trẻ tự kỷ nhiều em trông rất dễ thương ) có những hành vi kỳ dị và ngôn ngữ khác thường.

    Trong tác phẩm “ Giải thích điều bí ẩn của hiện tượng tự kỷ”, tác giả là bà Uta Frith đã nêu lên một số thí dụ về các huyền thoại và sự tích về những con người có các biểu hiện của tình trạng tự kỷ. Tháng Giêng năm 1801, bác sĩ  Jean Marc Gaspar Itard Viện trưởng viện Câm -Điếc Paris (Pháp) đã chăm sóc một cậu bé hoang dã, được đặt tên là Victor, có những biểu hiện tiêu biểu cho tình trạng tự kỷ mà ông Harlan Lane, một chuyên viên ngôn ngữ đã tập hợp các bài viết của Bs Itard và đưa vào tác phẩm “ Cậu bé hoang dã ở Aveyron”.  Câu chuyện của Bs Itardd rất hấp dẫn, nhưng điều quan trọng hơn là ông đã kể lại những biện pháp chăm sóc cho Victor, điều mà ông đã truyền lại cho các học trò của mình là ông Edouard Selguin và bà Marie Montessorri, người đã hình thành nên một phương pháp giáo dục đặc biệt có ảnh hưởng và thịnh hành cho đến ngày nay.

    Như thế chúng ta thấy là tự kỷ đã có từ rất sớm trong lịch sử con người, nhưng chỉ được giới thiệu rải rác trong một số các nghiên cứu của các nhà khoa học như John Haslan (1890 ở Anh) Nhà tâm lý Lightner Witmer (1919 ở Mỹ) với những mô tả về hành vi tương tự nhau cho mãi đến khi Leo Kanner, một bác sĩ người Mỹ vào năm 1943, trong một bài báo với nhan đề “Autism Disturbance of Effective Contract”, hội chứng này được ông  mô tả một cách khoa học và rõ ràng. Ông đã chọn ra những đặc điểm quan trọng :

    • Thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt cảm xúc với người khác.
    • Có những thói quen hàng ngày mang tính rập khuôn
    • Ngôn ngữ hạn chế , thiếu từ, sai văn phạm hay không có ngôn ngữ.
    • Thích xoay chuyển vòng tròn các vật và thao tác khéo léo trong một số hành vi
    • Có kỹ năng cao về ý thức không gian, có trí nhớ vẹt và ghi nhớ theo kiểu “ chụp ảnh” ( chỉ nhớ hình ảnh , con số, các từ ngữ mà không hiểu nghĩa ) …
    • Bề ngoài có vẻ nhanh nhẹn thông minh, nhưng khi tiếp xúc là dễ dàng nhận thấy những hành vi và ngôn ngữ không phù hợp.

    Ông cho rằng tự kỷ là một chứng hiếm gặp ở trẻ em, thường xuất hiện sau hai tuổi rưỡi và coi đó là đối tượng điều trị của y học. . Tiếp sau đó, Hans Asperger (1994), bác sĩ người Áo cũng mô tả các triệu chứng tương tự gọi là “Tâm bệnh tự kỷ” mà về sau gọi là hội chứng Asperger. . Cuối những năm 50 của thế kỷ XX, quan niệm về hội chứng này có sự thay đổi. Bender (1959) mô tả tự kỷ không phải là khiếm khuyết lúc sơ sinh của hệ thống thần kinh trung ương, mà là một phản ứng bảo vệ, một rối loạn mà cơ thể không có khả năng bảo vệ từ những lo lắng quá mức. Bernard Rimland (1964) cho rằng nguyên nhân của tự kỷ là do những thay đổi của cấu trúc lưới trong bán cầu não trái. Trong những năm từ 1960 – 1970, các nghiên cứu tập trung vào giải thích bản chất của tự kỷ, các lý thuyết tập trung vào những rối loạn sinh hóa hay chuyển hóa ở đối tượng này. Quan niệm được nhiều chuyên gia y tế chấp nhận trong một thời gian dài, xem đó là một bệnh lý thần kinh kèm theo tổn thương chức năng của não. .

    – Theo từ điển bách khoa Columbia (1996): Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển có nguyên nhân từ những rối loạn thần kinh làm ảnh hưởng đến những chức năng cơ bản của não bộ. Tự kỷ được xác định bởi sự phát triển không bình thường về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tương tác xã hội và suy luận. Trẻ nam nhiều gấp 4 lần nữ giới Trẻ có thể phát triển bình thường đến 30 tháng tuổi sau đó gặp phải một số rối nhiễu trong phổ tự kỷ.

    – Năm 1999, tại Hội nghị toàn quốc về tự kỷ ở Mỹ, các chuyên gia cho rằng nên xếp tự kỷ vào nhóm các rối loạn lan tỏa và đã thống nhất đưa ra định nghĩa cuối cùng về tự kỷ như sau: Tự kỷ là một dạng rối loạn trong nhóm rối loạn phát triển lan tỏa, ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự phát triển nhưng ảnh hưởng nhiều nhất đến các kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội

    – Hiện nay, khái niệm tương đối đầy đủ và được sử dụng rộng rãi phổ biến nhất là khái niệm của tổ chức Y Tế Thế giới, đưa ra năm 2008, tự kỷ được định nghĩa một cách đầy đủ như sau: “Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển tồn tại suốt đời, thường được phát hiện trong 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do một loại rối loạn thần kinh ảnh hưởng đến chức năng của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra không biệt giới tính, giàu nghèo, chủng tộc hay địa vị xã hội. Tự kỷ được thể hiện qua các khiếm khuyết về tương tác xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, các hành vi, sở thích, hoạt động có tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại.”

    Đến nay, tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ theo DSM-V (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về các chứng rối loạn tâm thần) được chính thức phát hành vào tháng 5/2013 với một số điểm thay đổi trong quan điểm về tự kỳ nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và thực tiễn. Điểm nổi bật trong phiên bản này bao gồm :

    • Thay tên gọi rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (PDD NOS) bằng tên gọi rối loạn phổ tự kỷ (ASD),
    • Tên gọi ASD được gọi chung cho 5 loại rối loạn như trong phiên bản trước.
    • Xếp nhóm rối loạn về giao tiếp và tương tác xã hội làm một, theo đó sẽ có 2 nhóm tiêu chí chẩn đoán thay vì 3 như trong DSM-IV.
    • Các tiêu chí chẩn đoán được thu gọn hơn so với các phiên bản trước kia.

    Tiêu chí chẩn đoán tự kỷ theo DSM-V như sau:

    Phải có đủ các tiêu chí sau :

    1. Khiếm khuyết trầm trọng về giao tiếp xã hội và tương tác xã hội trong nhiều hoàn cảnh, không phải o tình trạng chậm phát triển trí tuệ với 3 dấu hiệu sau:

    – Khiếm khuyết về sự trao đổi cảm xúc – xã hội

    – Khiếm khuyết về hành vi giao tiếp không lời được sử dụng trong tương tác xã hội

    – Khiếm khuyết về khả năng phát triển và duy trì quan hệ phù hợp với mức độ phát triển (ngoại trừ người chăm sóc).

    1. Sự giới hạn, rập khuôn về hành vi, sở thích và hoạt động
    2. Những dấu hiệu trên phải được biểu hiện từ khi còn nhỏ (nhưng có thể không thể hiện hoàn toàn rõ nét cho tới khi vượt quá giới hạn).
    3. D. Những dấu hiệu phải cùng hạn chế và làm suy giảm chức năng hàng ngày.

    DẤU HIỆU NHẬN BIẾT SỚM TỰ KỶ

    Có thể nói, cho đến nay, hội chứng Tự Kỷ (Autistic Spectrum Disoder – ASD) vẫn còn là một trong những tình trạng rối nhiễu tâm lý phức tạp, khó xác định nguyên nhân chủ yếu và cũng khó xây dựng một kế hoạch trị liệu. có hiệu quả cao mang tính chuẩn mực chung, mà phải là những kế hoạch can thiệp cho từng cá nhân.

    Trước đây, người ta thường nghiêng về những rối loạn trong quan hệ giao tiếp để cho rằng, sự thiếu quan tâm hay xa cách của người mẹ lúc ấu thơ là nguyên nhân chính. Từ đó, các biện pháp trị liệu thường đặt trọng tâm vào việc yêu cầu phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc nhiều hơn, và điều này cũng đồng nghĩa với việc “lên án” những sai lầm trong mối tương tác không lành mạnh với trẻ của phụ huynh, tạo thêm nhiều đau buồn không cần thiết. Nhưng đó chỉ là một yếu tố có thể làm tăng nặng thêm tình trạng Tự Kỷ đã có mầm mống ngay từ khi trẻ sinh ra, do đó cần chú trọng nhiều hơn đến các yếu tố sinh học.

    Các yếu tố quan trọng cần phải lưu ý ngay từ nhỏ, đó là trẻ có những hoạt động giao tiếp không bình thường qua tiếng cười và tiếng khóc. Chúng ta biết rằng, trẻ sơ sinh giao tiếp với người mẹ và những người xung quanh thông qua :

    Tiếng cười : Còn gọi là tiếng cười xã hội – trẻ chỉ cười để đáp lại một nụ cười trên khuôn mặt vui vẻ của mẹ hay người thân .

    Tiếng khóc : Có nhiều nguyên nhân khiến trẻ khóc, và có nhiều loại tiếng khóc khác nhau, mà một người mẹ nhạy cảm, quan tâm đến con có thể nhận ra . Trẻ khóc vì đói, vì lạnh, vì nóng, vì đau, vì sợ và vì nhõng nhẽo.

    Thế nhưng với trẻ có nguy cơ tự kỷ thì trẻ hầu như không cười, hay chi cười vu vơ và cũng không khóc do các nguyên nhân trên, trẻ thường kêu khóc một cách vô cớ, có thể ngưng khóc hoặc khóc dai dẳng dù đã đáp ứng mọi sự chăm sóc cho trẻ.

    Như vậy, sự thiếu quan tâm chăm sóc không phải là nguyên nhân chính gây ra tình trạng tự kỷ, nhưng việc quan tâm chăm sóc con một cách hợp lý, có sự đầu tư bằng các kỹ năng cần thiết của bố mẹ trẻ, phối hợp một cách hài hòa việc giáo dục và trị liệu bằng tâm lý lại là một yêu cầu hết sức cần thiết  trong việc can thiệp cho trẻ tự kỷ.

    Tự kỷ là một hiện tượng rối loạn tâm lý và   thần kinh rất phức tạp, mang tính cá biệt rất cao, không có một trẻ Tự kỷ nào có tình trạng và khả năng giống nhau, dù chúng đều có những dấu hiệu chung. Cho đến nay, việc xác định nguyên nhân cũng còn là một điều tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhưng nói chung thì đa số đều chấp nhận một số các nguyên nhân sau:

    • Sự phát triển kém hay không phát triển của một số tế bào thần kinh trong khu vực giao tiếp, tạo ra những tế bào non vì thế đã không có được những đáp ứng và khả năng tiếp nhận các kỹ năng giao tiếp mà cụ thể nhất là khả năng hình thành và phát triển ngôn ngữ.
    • Những rối loạn hay những sang chấn tâm lý (căng thẳng, buồn phiền, lo âu, giận dữ) trong lúc mang thai của người mẹ.
    • Sự thiếu quan tâm chăm sóc và môi tương giao không đầy đủ của bố mẹ trong quá trình nuôi dưỡng và phát triển ở những năm đầu cũng có khả năng làm tăng nặng tình trạng tự kỷ.

    Trong đời thường, chúng ta căn cứ vào những biểu hiện khá rõ rệt mà bố mẹ có thể nhận ra để xác định tình trạng của trẻ:

    Cách ăn nói:

    • Ngôn ngữ phát triển hoặc chậm hay không phát triển chút nào
    • Cách dùng từ không có ý nghĩa
    • Dùng cử chỉ thay vì lời nói để diễn đạt ý tưởng
    • Khó chăm chú được lâu

    Phản Ứng Trong Cách Giao Tế:

    • Thích một mình hơn là chơi với trẻ khác
    • Không thích kết bạn
    • Ít tác động như cười hay nhìn thẳng mắt người khác

    Giác Quan Bị Hư Hại:
    Giác quan nhìn, nghe, sờ, ngửi  và nếm có thể rất nhạy cảm hay lại giảm sút. Đây là một yếu tố quan trọng mà nhiều người thường bỏ qua.

    Cách Chơi:

    • Thiếu tính tự phát hay tưởng tượng
    • Không bắt chước được người khác
    • Không tự chế biến trò chơi

    Thái Độ Cư Xử:

    • Có thể quá họat động hay quá thụ động
    • Dễ nổi cơn thịnh nộ mà không có lý do chính đáng.
    • Không biết tự ý bày trò chơi
    • Quá chú ý  vào một vật, ý tưởng, hành động hay một người nào.
    • Thiếu khả năng suy xét.
    • Có thể tỏ gây hấn với người hay chính mình.
    • Khó chấp nhận thay đổi trong lễ thói hằng ngày .

    Tuy nhiên, những dấu hiệu này chỉ cho biết là trẻ có tình trạng tự kỷ hay không, nhưng ở mức độ nào, nhẹ hay nặng và nên có những biện pháp ra sao thì cần phải có những chẩn đoán đanh giá tỉ mỉ, kỹ lưỡng của các nhà chuyên môn để sau đó, có thể đưa ra những liệu pháp phù hợp với tình trạng của trẻ.

    Do mỗi trẻ Tự kỷ lại có những khả năng tiếp thu và phát triển khác nhau, vì vậy những gì thích hợp cho trẻ này, chưa chắc đã thích hợp cho trẻ khác. Vì thế việc xây dựng một kế hoạch trị liệu phải dựa trên sự chẩn đoán kỹ càng và đưa ra một chương trình giáo dục cá nhân cho đứa trẻ đó mà thôi.

    Vì thế, việc phát hiện sớm là điều cần thiết, nhưng điều đó không có nghĩa là can thiệp sớm thì trẻ sẽ hồi phục sớm, sẽ “ thoát tự kỷ” sớm . Vì tình trạng mà ta gọi là “hồi phục” hay “ bình phục” , “thoát khỏi” là những danh từ không chính xác, rất dễ gây ngộ nhận giữa một tình trạng “trở lại trạng thái bình thường” của những trẻ có các chứng bệnh về cơ thể hay các rối nhiễu tâm lý nơi các trẻ vốn là trẻ bình thường với một tình trạng “tiến đến trạng thái gần như bình thường” của nhiều trẻ tự kỷ đã được can thiệp bằng những biện pháo giáo dục hợp lý và bài bản.

    HIÊU ĐÚNG VỀ TỰ KỶ

    Trong cuốn The Bigger Boat, Linda Dorey Simpson, một phụ huynh có con gặp khó khăn về mặt học tập (learning disability), đã tâm sự rằng bà từng đọc đủ loại sách vở về khuyết tật viết bởi những chuyên gia có bằng cấp tiến sỹ, và cả những cuốn sách viết bởi … những người mẹ hổ (tiger moms).  Bà nói, có những cuốn sách bà đọc, bà hiểu rất tường tận, nhưng cũng có những cuốn sách chỉ làm phí thời gian của bà, thậm chí có những cuốn sách, theo sự nhận định cá nhân, thật nguy hiểm vô cùng đối với người đọc.  Qua sự nghiên cứu về khuyết tật trên mạng, bà đã tìm thấy nhiều thông tin ngộp thở như sau ( Đây là các tài liệu bằng tiếng Anh ):

    • Sách viết về giáo dục trẻ khuyết tật            7,143 cuốn.
    • Sách viết về khuyết tật học tập 2,717 cuốn.
    • Về tự kỷ trên mạng             2,660,000 bài.
    • Về chương trình giáo dục đặc biệt trên mạng 4,700,000 bài.

    Theo bà Simpson, sự phong phú về những thông tin qua sách vở và qua mạng là điều đáng mừng cho phụ huynh, nhưng khó khăn nhất chính là … bà không biết những cuốn sách nào hoặc những bài viết nào trên mạng sẽ thật sự hữu ích cho phụ huynh có con em bị tự kỷ ! Điêu này càng đúng hơn so với những đất nước mà hệ thống truyền thông vẫn còn có những hạn chế về trình độ khoa học và tinh thần trách nhiệm.

    Hiểu về tự kỷ như thế nào ?

    Trước hết, thuật ngữ “ Tự kỷ” đã được dùng tại Việt Nam một cách không chính xác, bởi vì nếu hiểu tự kỷ là tình trạng tự bản thân trẻ không thể thiết lập được mối quan hệ với bên ngoài qua ngôn ngữ và hành vi giao tiếp thì phải gọi đó là tình trạng Tự Bế hay Tự Tỏa, (bế quan – tỏa cảng) trong khi tự kỷ chỉ có nghĩa là tự bản thân mình. Điều này đã khiến cho một số người nhầm lẫn tự kỷ với tình trạng tự kỷ ám thị (tự tạo ra những tác động cho chính mình, đây là cụm từ Hán Việt chính xác) và vì thế đến nay lại thêm một số cách dùng từ Tự kỷ ở giới trẻ để chỉ một thái độ co cụm, xa cách người khác, không thích giao du! giống như một dạng trầm cảm!

    Danh từ Tự Kỷ được phổ biến khoảng năm 1987 tại Việt Nam, nhưng cho đến nay thì vẫn còn tình trạng không xác định đâu là biểu hiện quan trọng, đâu là những yếu tố phụ trong việc chẩn đoán xác định tình trạng và mức độ đã khiến một số các nhà chuyên môn và phụ huynh không biết cần phải làm gì để can thiệp cho con em mình.

    Tự kỷ hay rối loạn phổ tự kỷ được dịch từ cụm từ Autism Spectrum Disorder và đây không phải là một rối loạn duy nhất, nó bao gồm các tình trạng sau:

    • Rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD)
    • Hội chứng Asperger ( Asperger’s Disorder – AD)
    • Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (Pervasive Development Disorder Not Otherwise Specified – PDD NOS )
    • Hội chứng Rett ( Rett’s Disorder )
    • Rối loạn nhân cách tuổi bé tí (Childhood Disintegrative Disorder – CDD)

    Đây là nói  theo sự phân loại của DSM IV, nhưng qua đến sách DSM V thì gọi chung là Rối loạn phổ Tự kỷ ( ASD ) và chỉ có 2 mức độ là rối loạn tự kỷ chức năng cao và rối loạn tự kỷ chức năng thấp.

    Hiện nay, người ta cho rằng tự kỷ là một rối loạn phát triển thần kinh, theo ông Alessandri, chuyên gia của ABCNews.com’s phụ trách chuyên mục tư vấn qua điện thoại về tự kỷ : “Các nhà khoa học và bác sỹ lâm sàng giờ đã hiểu rằng tự kỷ không chỉ một thực thể đơn lẻ, mà là nhiều hội chứng gây nên rối loạn phổ tự kỷ,” ông Alessandri nói.

    Ngoài ra, có không ít người kể cả một số các nhà chuyên môn vẫn chưa phân biệt một cách rõ ràng giữa tình trạng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) với tình trạng hiếu động – kém chú ý (Còn gọi là tăng động giảm tập trung : Attention-Deficit-Hyperactivity Disorder- ADHD) và trẻ Chậm khôn (Mental Retardation) do ba tình trạng này có một số biểu hiện khá giống nhau, và có trẻ có cả hai các triệu chứng rối nhiễu này. Thế nhưng nếu xét kỹ về nguồn gốc rối nhiễu, và các biểu hiện quan trọng thì chuyên gia có kinh nghiệm sẽ nhìn ra những yếu tố khác biệt.

    Vì tình trạng tự kỷ có rất nhiều dấu hiệu cảnh báo, đi từ những dấu hiệu nguy cơ ở mức độ nhẹ cho đến những biểu hiện lâm sàng rõ rệt, nên việc xác định một trẻ tự kỷ thực sự không phải là điều dễ dàng, từ đó càng làm cho rối nhiễu này thêm rối, dẫn đến những nhận định trái chiều nhau giữa cha và mẹ hay giữa cha mẹ và nhà chuyên môn. Có nhiều bậc cha mẹ khi thấy trẻ có hành vi đi nhón gót, không biết chỉ tay, chỉ nói được vài từ đã nhất quyết là con mình bị tự kỷ. Còn có nhiều người lại không chấp nhận những dấu hiệu đã khá rõ ràng của con, mà chỉ cho là nó chậm nói hay chậm phát triển thôi !

    Nhiều người gọi đây là bệnh tự kỷ, điều này tuy không sai nhưng nó lại vô tình dẫn ta đến những suy nghĩ sai lệch, đó là quên yếu tố bẩm sinh mà chỉ cố tìm ra các nguyên nhân mắc phải sau khi sinh, đặc biệt là yếu tố cha mẹ ít chăm sóc con, ít trò chuyện với trẻ, thường xuyên để trẻ ở nhà với những người thiếu quan tâm về mặt giao tiếp, ít trò chuyện với trẻ như người giúp việc, ông bà … hay chính bản thân trẻ là người hướng nội, không thích giao tiếp…Trong khi đây chỉ là những yếu tố có thể làm cho tình trạng này trở nên khó khăn hơn.

    Nhưng điều gây ngộ nhận nhất, khi gọi tự kỷ là một chứng bệnh, sẽ khiến nhiều người hiểu rằng, đã là bệnh ắt có thuốc chữa, cách chữa. Và khi đã chữa thì trẻ sẽ bình phục, trở lại cuộc sống bình thường. Vì thế, họ cứ mải miết đi tìm những loại thuốc quý hiếm, những phương pháp mới lạ với suy nghĩ: Tiền nào của đấy! càng đắt tiền lại càng công hiệu. Hơn nữa điều này còn dẫn đến những định hướng sai lầm trong các biện pháp can thiệp, đôi khi họ lại chọn giải pháp đi theo các kinh nghiệm của những bà mẹ đã nỗ lực chiến đấu vì con mình mà không hiểu rằng tình trạng tự kỷ của con mình không giống với con của những bà mẹ đó.

    Tuy đã có rất nhiều biện pháp can thiệp được phổ biến, nhiều ngôi trường dạy trẻ Tự kỷ được mở ra nhưng các hiểu biết đúng đắn về tình trạng này cũng như chất lượng của các trường giáo dục chuyên biệt cho nhóm trẻ này vẫn bị thả nổi. Hơn thế nữa, ở nước ta hầu như chưa có một chính sách hỗ trợ nào cho các gia đình có trẻ tự kỷ, vì thế nhiều gia đình vẫn cứ phải “tự bơi” trong một biển mênh mông các thông tin một cách mơ hồ với các ảo tưởng thực hư về tình trạng của con mình.

    Tự kỷ là chậm nói và có hành vi kỳ lạ ?

    Như đã nói tự kỷ có những dấu hiệu nguy cơ và những biểu hiện lâm sàng từ nhẹ cho đến nặng, nhất là tình trạng chậm nói của trẻ. Khi thấy con chậm nói, thì hầu hết các bậc cha mẹ đều nghĩ đến tự kỷ, mà họ không biết rằng trẻ ADHD hay Chậm khôn cũng có tình trạng chậm nói, mặc dù đây không phải là dấu hiệu chính của 2 tình trạng này.

    Ngoài ra, cũng có những trường hợp chậm nói do yếu tố bên ngoài, ta goi là chậm nói đơn thuần do việc trẻ không có điều kiện tiếp xúc bằng ngôn ngữ trong giai đoạn tập nói từ 1 – 3 tuổi. Tuy nhiên điều làm cho các bậc cha mẹ lo ngại hơn cả, là những hành vi kỳ dị của trẻ mà trong các dấu hiệu chỉ Tự kỷ, các hành vi kỳ dị này được xem là những chứng cớ chắc chắn nhất. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong 5 yếu tố cần phải có là:

    1/ Sống khép kín, không biết cách chơi với người khác

    2/ Dễ nổi nóng( vì sợ, giận, buồn..)

    3/ Ngôn ngữ thiếu vắng, chậm

    4/ Lặp đi lặp lại trong hành vi và ngôn ngữ

    5/ Hành vi lạ kỳ như nhún nhảy, xoay tròn, đưa tay ve vẩy trước mặt

     Nếu cần đánh giá một cách kỹ hơn, chúng ta nên xét đến các yếu tố :

    1. Không biết nhìn theo hướng chỉ tay của người lớn vào một vật, hoặc chỉ nhìn vào bàn tay của người chỉ.
    2. Không trả lời, không có phản ứng khi có người gọi tên mình.
    3. Không biết bắt chước hành vi, nhưng có thể nhại lời
    4. Chậm phát âm: Không biết nói bi bô, líu lo
    5. Phát âm những tiếng kỳ lạ, không đúng với tình huống.

    6 .Có những sở thích kỳ lạ, thích các món đồ bình thường: Bao giấy, đồng xu, sợi dây…

    1. Có một số hành vi lập đi lập lại ( thích sắp xếp các vật dụng theo một thứ tự nhất định)
    2. Không có khả năng chơi đùa với các bạn cùng trang lứa
    3. Thường xuyên kích động, lăng xăng khó ở yên một chỗ.
    4. Thường thức rất khuya, khó ngủ, hay ngủ không yên giấc
    5. Không bộc lộ những cảm xúc vui, buồn một các rõ ràng
    6. Rất ghét sự tiếp xúc, đụng chạm của người khác đến người của mình hoặc ngược lại, quá gắn bó, đeo bám, thích vuốt ve, sờ chạm.
    7. Hay có những cơn giận dữ, kích động quá mức không kềm chế được.
    8. Thờ ơ trước mọi tình huống, ít bộc lộ cảm xúc.
    9. Thiếu ý thức về thời gian.

    Đây là những dấu hiệu dành cho trẻ trên 3 tuổi và phải có ít nhất 2/3 các dấu hiệu này kéo dài trong 6 tháng. Còn với trẻ dưới 3 tuổi thì yếu tố quan trọng là không có khả năng giao tiếp bằng mắt, có cái nhìn thờ ơ trước mọi người, không biết chơi đồ chơi và chậm phát âm. Như vậy, có thể nói để chẩn đoán đánh giá một trẻ tự kỷ, không thể là một sự đánh giá duy nhất trong một thời gian ngắn, mà cần có những biện pháp kết hợp và kinh nghiệm lâm sàng của chuyên viên, cũng như sự cộng tác tích cực trong việc cung cấp các thông tin một cách khách quan và đầy đủ hay sự quan sát của gia đình.

    CVTL. LÊ KHANH

    Phó chủ tịch Hội đồng chuyên môn

    Cty Giáo dục KidsTime – Hà Nội

  • Dạy Trẻ hay Chữa Trẻ

    Dạy Trẻ hay Chữa Trẻ

    Dù đã phát hiện ra chứng tự kỷ từ những năm 1801 bởi BS Jean Marc Gaspard Itard nhưng mãi đến năm 1943  chứng này mới được BS  Leo Kanner đặt tên là Autism ( Tự kỷ ) Đến nay đã được cả thế giới gọi là Hội chứng rối loạn phổ tự kỷ ( Autism Spectrum Disorder ). Nhưng còn khá nhiều người, từ nhà chuyên môn cho đến dân thường vẫn chưa xác định được đó là 1 căn bệnh hay một tình trạng rối loạn về thần kinh để đi tìm cách chữa hay tập trung vào việc dạy !

    Nếu hỏi 1 bà mẹ có con tự kỷ thì chắc chắn điều bà mong nhất là con được bình phục,  trở lại là một đứa trẻ bình thường. Chỉ khi nào sau bao nhiêu là nỗ lực, đem con đi làm chuột bạch  cho các tay lang băm hay tìm đến các giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng thế giới để rồi cũng phải chấp nhận 1 thực tế là trẻ chỉ có thể tốt hơn về mặt này, mặt kia ..có hành vi và năng lực gần như là bình thường chứ không thể nào bình phục, lúc đó bà mới có thể phải chấp nhận sự thật ( mà bà có thể đã biết từ ..lâu ).

    Nhưng tại sao cứ phải trở nên một đứa trẻ BÌNH THƯỜNG ? hãy thử nhìn những trẻ bình thường xung quanh, và hãy hỏi các bà mẹ có con bình thường xem, bảo đảm là họ cũng sẽ lôi ra được một đống thứ không bình thường của con, nào là lười biếng, nhõng nhẽo, khó tính, hay đánh bạn, đòi hỏi, học dốt, ham chơi, thậm chí là còn thu rút, không thích giao tiếp với ai hơn cả trẻ tự kỷ thứ thiệt ! Tóm lại là không có tài năng gì cả !

    Vậy những đứa trẻ bình thường đó có được yên thân với cái bình thường của chúng không ? cái bình thường mà bà mẹ trẻ tự kỷ nào cũng muốn con mình có được ?  Không, chúng không được phép bình thường, mà phải trở nên TÀI NĂNG. Cả một guồng máy kỹ nghệ giáo dục bao vây chung quanh bà mẹ, luôn cam đoan sẽ biến con bà thành một đứa trẻ tài năng mà bà mong ước ! Nhưng có thể trở thành tài năng hay không thì ..biết chết liền !Và sẽ có bao nhiêu trẻ trở nên tài năng hay chỉ là tưởng vậy mà không phải vậy ?

    Trong khi đó, với trẻ tự kỷ, đâu đó vẫn có những trẻ có Tài năng, một tài năng bẩm sinh cũng như chứng tự kỷ bẩm sinh của chúng.  Nhưng nhiều khi chúng không được nhìn nhận, không đươc hướng dẫn, khích lệ, bồi dưỡng để phát triển cái tài năng ấy, mà mẹ phải tìm mọi cách can thiệp, điều trị từ uống Vương Não Khang, đến cạo gió, châm cứu hay cấy tế bào gốc để trở nên một đứa trẻ  bình thường , nhưng nào có được mà thậm chí có khi còn mất luôn cái tài năng tiềm ẩn bên trong!

    Nếu giả như bé trở lại bình thường ( hay cho là như vậy ) có thể sau một thời gian nghỉ ngơi, bà mẹ sẽ lại tiếp tục nỗ lực để biến đứa con bình thường vừa đạt được đó  trở nên TÀI NĂNG ! Ngay cả với trẻ đã phát triển, thì có người vẫn không chấp nhận những tiến bộ nhất định của trẻ, mà họ luôn muốn con phải tiến bộ hơn nữa, có khi còn phải tiến nhanh  hơn cả trẻ bình thường.  Một trẻ bước vào Nhà trẻ Mẫu giáo từ năm 2 tuổi , để có những kiến thức kỹ năng  vào lớp Một, bé phải mất nhanh nhất là 3 năm ở mẫu giáo. Nhưng ở một trẻ tự kỷ đã 3,4 thậm chí là 5 tuổi, với nhiều khó khăn về ngôn ngữ, giao tiếp, nhận thức, hành vi mà có những người vẫn muốn con vào được lớp Một đúng 6 tuổi hay trễ lắm là 7 tuổi. Thế là họ bắt đứa trẻ học ngày học đêm, hết học trường chuyên biệt buổi sáng, đến trị liệu với chuyên viên, học kèm giáo viên buổi chièu và tối về mẹ dạy thêm nữa, để con có thể vào lớp Một ! Và khi con chậm tiến bộ hay không tiến bộ nổi thì họ lại nghĩ đến các cách..chữa theo ..quảng cáo!

    Ngay cả với trẻ đã có khả năng học tập, biết giao tiếp, thi con đường duy nhất mà các em phải đi là HỌC , học hết tiểu học thì phải lên trung học, mà học xong trung học thì phải vào đại học ! Trong khi đó, điều mà trẻ có thể làm tốt nhất là CHƠI , Thi hầu như ít khi nào nó được xếp vào hàng ưu tiên !  Ở các trẻ bình thường thì các nhà giáo dục, các quốc gia có nền giáo dục hàng đầu thế giới đều coi trọng vai trò của Chơi , bởi vì ai cũng phải thừa nhận, chúng ta chỉ làm được điều tốt nhất khi nào chúng ta THÍCH , và điều mà ai cũng thích đó là CHƠI !,

    Sẽ có người nói ngay, Chơi là lãnh phí, là mất thì giờ, là vô bổ … Bởi đúng là có những cái trò mà ta gọi là chơi thực sự vô bổ ! Nhưng đâu phải trò chơi nào, cách chơi nào, món đồ chơi nào cũng vô bổ ? Ngay cả với người lớn, những người khôn ngoan và thông minh vẫn có những trò chơ vô bổ, tốn tiền tốn thời gian lãng nhách kia mà, thì tại sao lại trách đứa trẻ ? bởi vì nó chỉ bắt chước người lớn, để làm cái trò người lớn một cách vô bổ thôi !

    Vậy, đến đây là chữa hay là dạy ? Ừ thì dạy, và dạy thì trẻ phải học và Học phải ra học ! Ngồi nghiêm túc trên bàn, cô trò đối diện học như 2 cái máy trong 1 giờ đồng hồ . Nếu thử hỏi các giáo viên  là dạy cho trẻ dễ hay chơi với trẻ thì dễ ? Có thể nói đa số sẽ chọn là Học.  Hãy thử nhìn một giáo viên dạy trẻ trong 1 tiếng đồng hồ , có vẻ rất cực nhọc, nhưng thực sự là đơn giản hơn rất nhiều nếu so với một giáo viên cùng chơi với trẻ trong 30 phút ! Bởi vì giáo viên chỉ cần dạy cái họ MUỐN DẠY, cái mà họ đã được huấn luyện lặp đi lặp lại cả chục lần rồi ! Vừa dạy vừa nghĩ đến cái hẹn tối nay, hay vừa dạy vừa lên FB cũng còn được !  Nhưng chơi thì không, nếu giáo viên muốn thực sự thu hút trẻ để cùng phát triển một kỹ năng nào đó  qua chơi, thì người GV ấy phải toàn tâm, toàn ý để làm được cái mà TRẺ THÍCH, ĐỂ BIẾT CÁI TRẺ CẦN, và để làm được điều đó thì không phải là chuyện ..đùa! Bởi vì chỉ có thể ép trẻ học chứ không thể ép trẻ chơi !

    Vậy là chỉ cần cho con chơi ? mà không cần CHỮA CHO CON ? KHông, vẫn phải chữa, vẫn phải TRỊ LIỆU, chứ không chỉ là dạy. Vậy thì trị liệu bằng thuốc gì, bằng cách gì ? Không, có thể nói, trị liệu cũng bằng cách chơi ! nhưng không phải là chơi với đồ chơi, mà là chơi với màu sắc, với âm thanh, với sự chuyển động của cơ thể và có thể cả với các vật dụng trong gia đình . Các biện pháp đó có tên gọi đàng hoàng nhé , nào là hội họa trị liệu, âm nhạc trị liệu, tâm vận động và … việc nhà trị liệu.

    Tại sao lại gọi đó là trị liệu ? bởi vì nó đòi hỏi sự am hiểu của những người có chuyên môn, đòi hỏi không gian, thời gian nhất định, đòi hỏi những nguyên tắc cơ bản, có những triết lý và hệ thống vận hành từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp ! Việc nhà mà cũng là trị liệu ? hãy nghĩ xem, nếu một người mẹ không giỏi nấu ăn, không thạo việc nhà như một chuyên viên, liệu có thể truyền đạt cho trẻ những điều mà họ biết một cách dễ dàng như chơi không ? việc nhà có đòi hỏi các tiêu chuẩn về không gian, thời gian, về nguyên tắc từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp ? nó cũng có triết lý của nó và giá trị, hiệu quả của nó ! Nếu một ông chồng giỏi việc nhà, đó có phải là một giá trị ? Một “mặt hàng” quý hiếm ? .

    Như thế, rõ ràng là việc dạy trẻ hay chữa trị đều là những hoạt động cần thiết. Nhưng mục tiêu của cả việc dạy lẫn việc chữa không phải là biến một đứa trẻ VIP – Một trẻ Đặc biệt trở thành một đứa trẻ bình thường, hay có khi, tệ hơn là trở nên một đứa trẻ tầm thường ! để rồi tiếp tục nhận được sự kỳ thị và lòng thương hại của những kẻ chung quanh. Mà đó là hãy giúp cho trẻ có thể triển nở được tài năng của nó, một tài năng ở bất kỳ một lĩnh vực nào,  điều đó có thể đem lại sự chấp nhận hay tôn trọng cái sự đặc biệt của trẻ, bởi vì sự đặc biệt đó không thể mất đi, mà nó chỉ trở nên một thứ đặc biệt có thể chấp nhận, hay một thứ đặc biệt khó có thể chấp nhận mà thôi !

    Việc dạy trẻ thì không thể tiến hành như dạy trẻ bình thường, vì nền giáo dục hiện nay đã quá lạc hậu, tầm thường và áp đặt.  Khiến trẻ không thể phát triển được tài năng, hay ít ra là lòng tự trọng, sự tự tin vào bản thân.  Với một nền giáo dục như thế, với những cách giáo dục áp đặt và lạc hậu như thế, thì tại sao với những bà mẹ có thể hy sinh tất cả cho con lại muốn nhét con vào cái lớp như thế, ở lớp học mà ta gọi là hội nhập thực chất chỉ là những nơi giữ trẻ, làm thui chột đi những tài năng nếu có của trẻ. Phải chăng chúng ta cố sức đưa trẻ vào, chỉ vì xã hội muốn như thế. Sao  chúng ta lại  nỡ ép trẻ chạy theo cái giáo án ABC vô hồn, lạc hậu chứ không muốn cho trẻ được chơi theo điều chúng thích, chúng ta buộc chúng phải biết đi, biết đứng, biết ngồi và biết nói những gì chúng ta muốn chứ không phải là những thứ mà chúng cần ? TẠI SAO ?

    Ngày 20/3 là ngày Thế giới Hạnh Phúc – Vậy thì chúng ta muốn tìm kiếm hạnh phúc cho chúng ta hay mong muốn hạnh phúc cho con mình ? Hãy nhìn lại cách mà chúng ta dạy trẻ, liệu có tốt hơn cho chúng nếu chúng ta để trẻ được chơi,thay vì bắt chúng nó phải học với cái roi bên cạnh để đạt cho được cái mục đích của chúng ta chứ không phải điều chúng muốn?

    Cho trẻ chơi, nhưng không phải là chơi với cái bóng của nó, mà là chơi với chúng ta, hãy biến việc ngồi xuống, việc dành cho trẻ một số thì giờ quý báu của bố mẹ trong ngày trở thành một buổi gặp gỡ vui vẻ, thú vị qua những trò chơi có định hướng, với những biện pháp để kích thích giác quan, khả năng vận động, sự tập trung … HÃY HỌC CÁCH CHƠI với con để cả chúng ta và con trẻ đều hạnh phúc, vì cả hai đều sẽ có cái mình muốn !

    CvTl. Lê Khanh

    Phó chủ tịch Hội đồng chuyên môn  KIDSTIME – HN

  • Bạo Hành Trẻ mầm non – Nỗi đau từ nhiều phía.

    Bạo Hành Trẻ mầm non – Nỗi đau từ nhiều phía.

    Hiện nay, cụm  từ “bạo hành trẻ em” hay “bạo hành trẻ mầm non” đã trở nên khá phổ biến, nếu tìm trên Google thì chỉ vài giây sẽ cho ra hơn 1 triệu 200 nghìn kết quả. Từ những vdeo làm “dậy sóng” dân cư mạng, cho đến những vụ mà ai cũng phải sót xa trên báo chí, trên hay Facebook. Người ta thường sót xa khi thấy những đứa trẻ bị hành hạ bởi những người mà lẽ ra là phải có trách nhiệm chăm sóc, thương yêu, vui đùa với các em. Dĩ nhiên những cô giáo, bảo mẫu đó đã bị lên án không thương tiếc, và nhiều người đã phải trả giá với những bản án nghiêm khắc để làm gương.  Một cái giá khá đắt mà lẽ ra họ sẽ không phải nhận lãnh nếu chính họ được quan tâm, tôn trọng và đươc hướng dẫn những biện pháp chăm sóc giáo dục phù hợp với tâm sinh lý trẻ em hơn.

    Có thể nói, trong cuộc sống thì bất kỳ ai cũng đều gặp những thời điểm khó khăn, căng thẳng, mệt mỏi vì những áp lực công việc, áp lực kinh tế và cả những áp lực về mặt cảm xúc . Những áp lực này không chừa một ai và nó đã tạo ra một cái vòng luẩn quẩn. Khi một giáo viên bị áp lực, thì họ có thể dễ dàng bùng nổ để trút bỏ áp lực đó lên những trẻ mà họ phải chăm sóc. Thế rồi khi những đứa trẻ bị tấn công, hành hạ vì điều đó, thì với những vết thương tâm lý sâu sắc ấy, chúng mang về nhà, trước mắt là trút lại lên bố mẹ qua những biểu hiện rối loạn hành vi, trẻ sẽ sợ sệt, có thể mất ngủ hay ngủ không yên giấc, trong giấc ngủ có thể kêu khóc vì những ám ảnh ban ngày, khi bị bạo hành lại kéo đến trong giấc mơ. Cũng có trẻ trở nên nhút nhát, thu rút , lo lắng, biếng ăn, không muốn đi học. Gây ra những hoang mang cho bố mẹ. Thậm chí lại có những trẻ  sẽ có những phản ứng bùng nổ như cào cấu, đánh mẹ, đánh ông bà như một cách  dịch chuyển những sự tấn công đã bị hứng chịu ở trường, ở giáo viên thậm chí là ở trẻ khác nay chuyển sang cho những người thân trong gia đình.

    Kết quả đến phiên bố mẹ là “nạn nhân”. Họ sẽ lo lắng, căng thẳng và mệt mỏi trước những phản ứng đó. Điều may mắn là nếu họ nhận ra được những dấu hiệu đó là một “nghi vấn” về sự bạo hành mà con mình phải hứng chịu, để rồi tìm cách xoa dịu. chăm sóc nhẹ nhàng và cùng với người giáo viên, bảo mẫu đó từng bước thay đổi sự tác động với trẻ bằng lời nói, hành động, hướng dẫn trẻ vào những hoạt động biểu lộ sự yêu thương với các con vật, với bạn bè và với những đứa trẻ có hoàn cảnh bất hạnh để những tổn thương sẽ dần dần nguôi ngoai trong tâm trí và lành lặn trên cơ thể của trẻ.

    Nhưng thường  thì bố mẹ lại tìm đến thủ phạm, có khi do cộng đồng “ mạng” truy tìm giúp và lôi ra ánh sáng để trừng phạt bằng “ bạo lực”, thì điều này có thể làm bố mẹ thỏa mãn, nhưng lại là một nguy cơ cho đứa trẻ. Nó cũng sẽ cảm thấy “hài lòng” khi những người đánh nó, hành hạ nó phải trả giá. Như vậy chính cái mầm mống bạo hành mà trẻ đã phải nhận lãnh, sẽ được “gieo trồng” trở lại trong tâm hồn nó. Nếu như điều đó lập lại, và nếu như vì thế mà các giáo viên, bảo mẫu sẽ không dám áp dụng bất kỳ một biện pháp giáo dục nào với trẻ nữa, thì đứa trẻ sẽ trở nên một kẻ “ bạo hành” tiềm năng sau này !

    Trong một lớp mẫu giáo, có hai trẻ đánh nhau. Một bé mách: “Cô ơi bạn ấy chọc vào mắt cháu”. Cô gọi đứa đánh bạn ra hỏi. Thằng bé trợn mắt kêu: “Nó đã mù đâu!” Vâng, đó chính là cái “ác” mà trẻ đã “ học bằng thực hành” từ những hành vi và lời nói của người lớn ! Bởi vì không chỉ là đòn roi hay những cái tát làm tổn thương đứa trẻ, mà chính  những lời mắng nhiếc, mỉa mai , châm chọc … hay thái độ của người lớn đối xử với nhau, cũng là một thứ bạo hành đôi khi còn khủng khiếp hơn cả những vết thương tóe máu ngoài da, bởi vì có thể nó sẽ được ghi vào “ bộ nhớ” và kéo dài suốt quãng đời của trẻ.

    Là phụ huynh, chúng ta phải biết bảo vệ con cái trước những hành vi bạo hành, nhận ra những dấu hiệu cho thấy những tổn thương sâu sắc ở các em. Nhưng, bảo vệ không phải là ôm ấp, bênh vực  bất kể đúng sai, cũng không phải là bao che các hành vi vô kỷ luật ở trẻ và lại càng không phải là một sự trả thù “ mắt đền mắt – răng đền răng” với những kẻ đã gây ra những tổn thương cho con mình. Mà là một sự quan tâm đến ứng xử và hành vi của trẻ tại nhà, tập cho con có những hành vi tự chủ, biết tôn trọng bản thân và người khác.  Biết chấp nhận những điều đúng do người lớn đưa ra. Chính sự chiều chuộng thái quá tại gia đình, sẽ làm cho trẻ trở nên mềm yếu, đòi hỏi và lười biếng.Thậm chí có thể trở nên hỗn láo và ích kỷ với người thân, mà những hành vi đó sẽ không được chấp nhận ở nhà trường, có khi đó lại là nguyên nhân dẫn đến sự tức giận của các cô giáo, nếu như trong thời điểm đó, bản thân giáo viên đang phải chịu một áp lực, do không có kinh nghiệm, hay thiếu bản lĩnh sư phạm do không được đào tạo bài bản thì khả năng bạo hành rất dễ xẩy ra.

    Bạo hành không phải chỉ là bộc lộ cái ác, mà còn là sự nuôi dưỡng cái ác, điều đó không  chỉ đến từ giáo viên,hay từ nhà trường, mà còn đến từ một cơ chế tổ chức của gia đình và xã hội, trong đó không có sự tôn trọng những giá trị của con người và thiếu đi tình yêu thương đối với trẻ thơ.

    CvTl Lê Khanh

    Phó chủ tịch hội đồng chuyên môn  Cty Giáo dục KidsTime HN.

  • Những điều đặc biệt về Trẻ đặc biệt

    Những điều đặc biệt về Trẻ đặc biệt

    Trẻ đặc biệt là cách gọi các trẻ có tình trạng tự kỷ ( ASD = Autism Spectrum Disorder ) trẻ Tăng động giảm chú ý (ADHD = Attention-Deficit-Hyperactivity Disorder ) và trẻ Chậm phát triển Trí tuệ . Ngoài ra trẻ còn có một biệt danh là trẻ VIP ( nhân vật rất quan trọng ) và phần lớn dùng để chỉ tình trạng tự kỷ .

    Đặc biệt trong cách gọi :

    Trước đây có trẻ tàn tật rồi khuyết tật và có khuyết tật thể lý, khuyết tật tâm lý , khuyết tật học tập … nhưng chưa ai gọi 1 trẻ có sự khiếm khuyết là 1 nhân vật rất quan trọng  ( Very Important Person = VIP ) bây giờ thì gọi trẻ VIP thì ai cũng hiểu trẻ đó là ai !

    Đặc biệt trong chẩn đoán :

    Dù đã phát hiện gần trăm năm nay ( từ năm 1943 ) nhưng cho đến nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân và còn cãi nhau trong việc phân chia các loại đặc biệt và mức độ của nó !

    Đặc biệt trong nhận định :

    Có 2 quan điểm , một thì cứ gọi nó là bệnh , dù cũng phải công nhận là chưa có thuốc chữa, chưa có phương pháp trị liệu hiệu quả, và vì thế đã trở thành một vùng đất mầu mỡ cho các loại lang băm khai thác dựa trên nhận định : Đã là bệnh thì sẽ có thuốc chữa . Một thì gọi nó là hội chứng, tình trạng rối loạn , nhưng vẫn cứ xếp vào nhóm các rối loạn tâm thần !

    Đặc biệt trong cách can thiệp :

    Có lẽ chưa có một tình trạng rối loạn về tâm lý và thần kinh nào lại có quá nhiều cách can thiệp, giáo dục, trị liệu như cái tình trạng đặc biệt này, bên cạnh hàng chục phương pháp chính thống, khoa học ( trên 27 phương pháp ) thì cũng có hàng chục phương pháp không chính thống, phản khoa học khác mà phương pháp nào cũng cho mình là hay nhất, hiệu quả nhất, dù cho đến nay chưa có một phương pháp nào phát huy được tác dụng, mà phải có sự phối hợp nhưng lại cãi nhau loạn xị là phối hợp như thế nào !

    Đặc biệt trong việc can thiệp :

    Ai cũng chấp nhận là phải can thiệp bằng các biện pháp giáo dục, và trị liệu hành vi, tâm lý …trong một thời ggian dài  nhưng ai cũng muốn  đi tìm một phương thuốc nhiệm mầu, có thể chữa khỏi trong một thời gian ngắn ! Trong khi có những căn bệnh hẳn hoi như tiểu đường, cao huyết áp.. thì lại sẵn sàng chịu đựng từ năm này sang năm khác.

    Đặc biệt các biện pháp can thiệp :

    Có lẽ chưa có tình trạng nào mà ranh giới giữa các biện pháp lại mong manh và mâu thuẫn nhau như trong cái tình trạng đặc biệt này, có những Phu huynh một mặt vẫn đưa con đến trường can thiệp, nhưng vẫn sẵn sàng vái tứ phương với các kiểu chữa bệnh không giống ai từ cấy tế bào gốc cho đến cạo gió, hay cúng bái ! Đặc biệt là sau bất cứ biện pháp nào, phụ huynh cũng thấy con “ tiến bộ” có khi đôi chút, có khi “ hàng ngày” nhưng thực sự tiến bộ thì lại không đánh giá được !

    Đặc biệt là với các phương pháp phản khoa học, với các loại thực phẩn chức năng đụng đâu bổ đó, ai cũng thấy là đó chỉ là những quảng cáo nhập nhằng và láo toét. Thế nhưng lại có khá nhiều chuyên gia, bác sĩ , giáo viên …chỉ thích ngậm miệng có khi vì tiền, có khi vì ngại va chạm và hầu hết chỉ biết giương mắt nhìn các hãng sản xuất lột từng đồng bạc của phụ huynh !

    Đặc biệt trong những người can thiệp :

    Chưa có một tình trạng rối loạn tâm lý và thần kinh  nào mà nhiều vai trò cùng nhảy vào can thiệp bằng tình trạng này, từ các giáo viên mẫu giáo, các sinh viên tâm lý, sư phạm, hay kế toán, tài chính, ngoại thương … cho đến các phụ huynh tốt nghiệp từ đủ các trườnghoặc chỉ theo kinh nghiệm bản thân .  Từ các chuyên viên có chuyên môn cho đến không có chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác nhau, sau một vài khóa tập huấn trong và ngoài nước là đều có thể can thiệp cho trẻ theo nhiều kiểu khác nhau một cách vô tư, miễn là thuyết phục được phụ huynh.

    Đặc biệt hơn nữa là ai cũng thấy cần có sự phối hợp giữa các chuyên viên các ngành khác nhau, nhưng đến nay thì chưa ai có thể kết hợp được !

    Cái đăc biệt nhất là ai cũng thừa nhận là phụ huynh có vai trò quan trọng, và cũng có rất nhiều khóa huấn luyện mở ra cho phụ huynh học cách dạy con , nhưng ngoài một số có “ năng lực thiên phú” hay có “ khiếu dạy con” hoặc may mắn là con không nặng. Để từ đó có được những kết quả nhất định, thì hầu hết phụ huynh đều kêu khó, không có thì giờ cho con, dù có thể mang con đi đến hết chỗ này đến chỗ khác để chữa ! Hầu hết chỉ đi học cho biết rồi về nhà kiếm giáo viên đến dạy !

    Đặc biệt trong quan điểm về can thiệp : 

    Ai cũng nghĩ  là phải dạy  thì trẻ mới tiến bộ, nhưng trẻ tiến bộ thực sự là nhờ những biện pháp tác động như các hoạt động chơi cũng như các hoạt động trong gia đình , nhưng phụ huynh lại cứ muốn cho con đi học ở các lớp, các trung tâm càng nhiều càng tốt !

    Đặc biệt là trẻ hầu hết đều có khó khăn về ngôn ngữ, giao tiếp, vận động, hành vi và cả giác quan, mà chương trình can thiệp phải là những biện pháp tác động về nhiều mặt, nhưng hầu như ai cũng quan tâm đến việc tập sao cho trẻ nói được !  Chỉ cân trẻ đụng đâu nói đó là coi như một sự thành công lớn, vì thế mọi hoạt động dạy hầu như tập trung vào việc này, mà không nghĩ đến các biện pháp tác động khác.

    Cũng còn nhiều cái đặc biệt nữa, như đặc biệt về các tài liệu , sách vở, trang web và các loại thông tin các kiểu, chưa từng có tình trạng rối loạn nào được nói nhiều đến như thế này . Nếu có ai bỏ công ra đọc hết, chắc không tẩu hỏa nhập ma thì cũng vừa đi vừa cười, nhưng vẫn thích gom góp các tài liệu, bất cứ ai đưa lên mạng cái gì mới hay cũ cũng nhảy vào xin chia sẻ , có khi mang về dùng, có khi mang về ..bán nhưng hầu hết có lẽ chỉ mang về cất trong máy tính mà có khi nếu lôi ra xem thì cũng chả hiểu gì, nhưng vẫn cứ thích xin  ( còn mua thì chưa chắc ) !

    Còn những cái Đặc biệt về chính sách , đặc biệt về hệ thống trường lớp thì chắc phải tốn vài trang giấy chưa chắc là nói được hết …. Và điều đặc biệt nhất có lẽ là cũng chưa có một tình trạng nào được nói hoài, bàn hoài, chia sẽ hoài mà vẫn không hết độ nóng của nó !

    CVTL Lê Khanh

     

  • Phát triển kỹ năng giao tiếp nơi trẻ nhỏ

    Phát triển kỹ năng giao tiếp nơi trẻ nhỏ

    Một trong những khiếm khuyết điển hình của trẻ tự kỷ là những rối loạn trong giao tiếp, bao gồm tình trạng chậm nói hoặc chỉ là những phát âm linh tinh không ai hiểu và những hành vi, thái độ bất thường khiến trẻ không thể hòa nhập và thích nghi được với môi trường xung quanh. Vì điều này nên tự kỷ được xem là một trong những khó khăn nhất trong các dạng khuyết tật trí tuệ ở trẻ.

    Do đây là những dấu hiệu rõ ràng, dễ thấy nhất nên chúng ta hay xem  đó làm dấu hiệu chẩn đoán  cần có, khiến cho việc phát hiện trẻ tự kỷ thường khá chậm trễ, vì phải trên 2 tuổi thì những khó khăn về ngôn ngữ và giao tiếp mới thực sự bộc lộ.  Ngoài ra cũng vì xem đó là những  dấu hiệu tiêu biểu của chứng tự kỷ, nên có nhiều người cho rằng chỉ cần tác động, can thiệp hay điều trị sao cho trẻ có thể nói được, ít nhất là bật ra một số âm từ có nghĩa, và giảm đi những hành vi, cử chỉ bất thường trong giao tiếp là trẻ đã được xem có khả năng “ hồi phục” hay “ thoát khỏi”  tình trạng bất hạnh này.

    Những dấu hiệu ban đầu :

    Thực ra, những dấu hiệu báo động cho tình trạng “rối loạn giao tiếp” ở trẻ đã có ngay từ khi trẻ mới sinh ra đời, khi mà “ngôn ngữ – giao tiếp” của trẻ mới chỉ là những nụ cười – tiếng khóc, ánh mắt nhìn dõi theo khuôn mặt của bố mẹ và những cử chỉ “ phi ngôn ngữ” mà trẻ bộc lộ qua việc cầm, nắm, sờ chạm hay quay đầu để dõi theo một tác động nào đó.

    Trong 3 tháng đầu đời, trẻ đã có thể nhận ra khuôn mặt quen thuộc của mẹ, có thể giao tiếp bằng tiếng khóc  và đã có những phản xạ cầm nắm. Đây cũng chính là các dấu hiệu để phát hiện nguy cơ tự kỷ nơi trẻ sơ sinh khi mẹ thấy bé tiếp xúc với mình bằng một cái nhìn thờ ơ, hầu như không có cảm xúc nào bộc lộ trên khuôn mặt. Trẻ cũng có những tiếng khóc đanh và cao, đồng thời phản xạ cầm nắm của trẻ rất lỏng lẻo.

    Trong những tháng kế tiếp, trẻ thường thích được bạn ôm ấp, vuốt ve, biết lắng nghe những câu nói, đặc biệt là với những câu nói như hát, hay những bài vè, bài thơ mà trẻ “nghe bằng trái tim” . Trẻ cũng biết đòi bế, thích thú với những người thân đang ở xung quanh mình… thậm chí là có phản ứng khi được gọi tên dù trẻ hoàn toàn không hiểu nghĩa, mà chỉ cảm nhận được sự quan tâm và yêu thương của bố mẹ. Ngược lại, nếu trẻ không có các phản ứng này thì phải xem đó là điều đáng báo động.

    Với những trẻ có nguy cơ tự kỷ thì hầu như trẻ có vẻ như ngủ suốt ngày, khi thức giấc thì tỏ ra hiền lành đến mức lãnh đạm trước những tác động của những người xung quanh và cũng hề tỏ ra lo lắng, sợ hãi khi phải nằm một mình, xa cách người thân trong một khoảng thời gian.

    Điều này cho thấy, việc thiếu quan tâm chăm sóc, thiếu sự ôm ấp gần gũi, cho bú mớm của  người mẹ không phải là nguyên nhân gây ra tự kỷ. Ngược lại, chính sự qun tâm chăm sóc sẽ giúp bố mẹ phát hiện ra những  thái độ lãnh đạm, ánh mắt thờ ơ, thiếu cảm xúc khi được ôm ấp … để có thể áp dụng ngay những biện pháp can thiệp , tuy không thể “ chữa lành” một tình trạng rối loạn  bẩm sinh nhưng có thể làm cho các khó khăn của bé giảm thiểu một cách đáng kể, chứ không nhất thiết phải đợi đến khi trẻ trên 2 tuổi, mới có thể đưa đến các bệnh viện phòng khám để được chẩn đoán xác định và sau đó mới áp dụng các biện pháp can thiệp sớm.

    Phát triển vận động là tiền đề cho ngôn ngữ:

    Khi trẻ được 6 tháng thì một trong những điều mà trẻ có thể làm được là bò, có thể trẻ biết bò sớm hơn hay trễ hơn thời điểm này một vài tháng, nhưng việc bò cũng là một dấu hiệu phát triển thần kinh cần có nơi trẻ, và những bé bỏ qua giai đoạn này mà ta thường gọi là trốn bò, cũng phải xem là một dấu hiệu cần lưu ý vì sự phát triển khả năng vận động thô, sau đó là các vận động tinh là tiền đề cho sự phát triển ngôn ngữ và giao tiếp sau này của trẻ.

    Để giúp cho trẻ bò tốt, hay đúng hơn là phát triển được khả năng phối hợp tay chân, kiểm soát được sự vận động của cơ thể, thì ngay từ khi trẻ được 1 -3 tháng tuổi, chúng ta hãy kích thích phản xạ đeo bám cho bé, tập cho bé nằm lên hai cánh tay của bố hay mẹ, hai bàn tay của bố đỡ lấy đầu của trẻ , để cho hai tay bé ôm lấy 2 cổ cánh tay mình và hai chân vòng qua hai cùi chỏ, từ đó sẽ đung đưa nhẹ nhàng từ trái sang phải. Việc tập cho trẻ đeo bám lấy cánh tay hay một phần cơ thể của mẹ ngay từ bé, sẽ kích thích được cảm giác an toàn nơi bé, tạo được sự gắn kết với con, đây chính là những điều mà trẻ tự kỷ rất yếu và thiếu. Vì vậy việc tái tạo sự gắn kết với trẻ ngay từ nhỏ, sẽ có giá trị lớn trong việc giảm thiểu nguy cơ về phát triển của trẻ.

    Khi cho trẻ nằm ngửa một cách thoải mái trên giường, tự do vận động tay chân cũng là một biện pháp kích thích khả năng vận động nơi trẻ. Chúng ta có thể nắm lấy hai bàn tay nhỏ bé và nâng hai cánh tay của bé lên vài lần. Cũng làm thế với hai chân khi chúng ta nắm lấy hai bàn chân của trẻ, vừa xoa bóp vừa đẩy lên đẩy xuống như đạp xe đạp… Nói cách khác hãy “ tập thể dục” một cách nhẹ nhàng cho trẻ trong tư thế nằm với những nụ cười, ánh mắt yêu thương và những bài hát nhẹ nhàng có vần điệu ngay từ 1 – 2 tháng tuổi để giúp trẻ phát triển khả năng vận động.

    Để phát triển mối tương tác mẹ – con thì ngoài việc cho con bú, chúng ta hãy có những giờ phút thư giãn cùng con – Mẹ nằm ngửa trên sàn trải chiếu hay thảm, đặt con nằm trên ngực trần của mình, đầu của bé sẽ áp sát vào ngực mẹ, và lấy hai tay ôm lấy con, có thể co đầu gối lại để đặt hai bàn chân trên mặt sàn. Sau đó hít thật sâu và dướn mình cho xương sống ép sát xuống sàn, rồi từ từ thở ra thật nhẹ nhàng cho thật hết khí trong phổi, nín thở vài giây rồi tiếp tục hít vào, làm động tác này vài lần. Trẻ sẽ cảm nhận được nhịp đập của trái tim và làn hơi thở của mẹ. Hoạt động này sẽ giúp cho trẻ tái tạo lại mối gắn kết mẹ con, từ đó sẽ giảm đi những lo lắng.

    Tất cả những điều này cũng như những tác động giúp trẻ phát triển khả năng nghe, nhìn, sờ chạm ngay từ nhỏ, sẽ là những biện pháp phòng ngừa tốt nhất , khiến cho tình trạng tự kỷ nếu có sẽ có thể giảm nhẹ ở mức thấp nhất. Sau này nếu trẻ bộc lộ những khó khăn trong giao tiếp thì cũng sẽ dễ dàng tiếp nhận những biện pháp can thiệp sớm của bố mẹ các em một cách hiệu quả hơn.

    Chúng ta không đợi đến khi trẻ bộc lộ một cách rõ rệt tình trạng chậm nói, rối loạn hành vi mới đi tìm các phương pháp can thiệp, trị liệu bằng bất cứ giá nào, kể cả với những biện pháp phi khoa học với suy nghĩ : Đây là một căn bệnh, biết đâu sẽ có thể chữa lành.. để rồi tiền mất, tật còn, phí công mất sức với những tay lang băm tán hươu tán vượn. Bố mẹ hãy chủ động can thiệp ngay khi trẻ còn nhỏ, nếu thấy có những dấu hiệu nguy cơ.

    Ngay cả khi trẻ không bộc lộ một dấu hiệu nguy cơ nào, và lớn lên một cách bình thường thì những hoạt động giúp trẻ phát triển giác quan và vận động, đáp ứng các nhu cầu cảm xúc cho trẻ ngay trong những năm tháng đầu đời qua trong việc ôm ấp, vuốt ve, chơi đùa để giúp trẻ phát triển giác quan – vận động – cảm xúc cũng hết sức cần thiết để trẻ có được những kỹ năng giao tiếp xã hội một cách đầy đủ hơn khi lớn lên.

    CvTL LÊ KHANH

     

  • Ảo vọng hay Hy Vọng !

    Ảo vọng hay Hy Vọng !

    Gần dây, sau bao nhiêu thông tin chính thống về tự kỷ, sau bao nhiêu khóa học được mở ra, sau bao nhiêu tài liệu được chia sẻ miễn phí trên mạng … Tưởng chừng như các phụ huynh đã có được những hiểu biết nhất định vè tình trạng này, để không còn đâm đầu lôi con đi tìm những phương pháp nhiệm mầu và nhanh chóng nhằm “điều trị”, để giúp cho “ Con về”  hầu “đưa con trở lại thiên đường” với cuộc sống bình thường và đi học “hòa nhập” …

    luadao

    Nhưng không, vẫn còn người hỏi thăm có phải đưa con đi cấy tế bào gốc sẽ giúp con khỏi bệnh hay không ? Vẫn còn người muốn mang con đến thần Y Võ Hoàng Yên để giúp con nói được, dù chính ông đã tuyên bố là không chữa được tự kỷ, mà chỉ là đám đệ tử của ông ra tay “ tra tần” đứa trẻ để cho nó vào khuôn phép ! Hay hơn nữa là có rất nhiều người thích xếp hàng chờ 6 tháng để con được cạo gió chữa bệnh, dù bệnh thì chưa biết có khỏi hay không, nhưng thân thể con đã giống như thằng tù vừa bị hỏi cung ! còn nếu không, muốn nhẹ nhàng nhanh chóng thì cứ cho con uống Vương Não Khang, không hết thì cũng bổ mà không bổ sấp thì cũng bổ ngửa !

    Tại sao lại như vậy ? Phải chăng là phụ huynh còn u mê lạc hậu, phải khai sáng hơn nữa ? Không – Chắc chắn là các phụ huynh đều là những người có học, thậm chí là có cả các bằng cấp chuyên môn.

    Phải chăng là những phương pháp đó đều miễn phí, đều không mất gì ngoài chút công sức bỏ ra? Không, hầu như không có cái gì là miễn phí cả, và phụ huynh phải mất tiền, thậm chí là rất nhiều tiền và công sức để vác con chạy tới chạy lui, bỏ cả công ăn việc làm !

    Vậy phải chăng là do phụ huynh thiếu kỹ năng, không biết lên mạng, lên FB để tìm kiếm các thông tin hữu ích và khoa học ? Không – Bởi vì chính truyền thông trên mạng đã đưa một bà lang Nùng vô danh tiểu tốt lên thành một lương y vô tiền khoáng hậu, chỉ với vài đồng bạc để cạo gió, đã có thể đánh bại cả một hệ thống giáo dục trẻ tự kỷ lừng danh của Mỹ, trong việc có thể chữa khỏi bệnh tự kỷ trong một thời ngắn từ một đứa trẻ cho đến sinh viên đại học, đều có thể khỏi hẳn, trục xuất cái chứng “ trống đánh trong đầu” này ra khỏi cơ thể mà không cần thêm bất kỳ một phương pháp nào khác !

    Cũng chính truyền thông, vửa giúp phổ biến thông tin chính quy, nhưng cũng vừa giới thiệu thông qua những trang mạng “ lá cải” những luận cứ kiểu như “ Tại sao lại cứ phải dựa vào các phương pháp khoa học duy lý Tây Phương, trong khi với những phương pháp thần bí Đông Phương như Yoga, Thiền hay cầu nguyện hoặc cụ thể hơn như cạo gió, cấy chỉ có thể giải quyết được” của một kẻ cũng tự nhận mình là chuyên gia !

    Ở đây – một câu hỏi lại được đặt ra: Tại sao những thông tin chính thống trong những tờ báo, hay diễn đàn nghiêm túc thì ít người TIN, mà những thông tin thiếu cơ sở khoa học lại có những lượt xem vào hàng khủng? và chắc chắn trong số đó không ít những người sẽ tin, cũng có những người không tin nhưng cứ thử xem, biết đâu ! Còn nước, còn tát..có bệnh thì vái tứ phương ?

    Vấn đề đầu tiên là nằm ở chữ BỆNH

    meconĐã từng có rất nhiều nhà chuyên môn, từ các y bác sĩ cho đến các tiến sĩ, giáo sư, các chuyên gia tâm lý có trình độ, đều gọi đây là BỆNH TỰ KỶ ! và cũng có rất nhiều các tài liệu, các bài viết trên báo chí và các phóng sự  trên các phương tiện truyền thông, từ phim ảnh, truyền hình đến các Video Clip trên Youtube ( trong và ngoài nước ) cũng gọi đây là bệnh ! Vậy điều này có sai không ? Nếu sai thì tại sao chính Tài liệu “ Chẩn đoán và phân loại bệnh “ của Mỹ là sách DSM IV và sau này là DSM V vẫn xếp tự kỷ vào nhóm các bệnh chứng tâm thần ?

    Vậy thì nó đúng ? và nếu đúng thì tại sao ngay chính cái Tên của nó, các nhà khoa học đều gọi là “ Hội chứng rối loạn phổ tự kỷ” ( Autism Spectrum Disorder ) mà không gọi nó như một căn bệnh ( Diseare ) hay Autism Diseare ?  và nếu gọi nó là bệnh thì có thể trả lời các câu hỏi sau hay không :

    1/ Có loại bệnh nào mà không thể điều trị ( hầu như tất cả các phương pháp điều trị đều không hiệu quả ) mà chỉ có thể cải thiện tình trạng bằng các biện pháp giáo dục ( có gần 30 biện pháp khác nhau ) . Ngay cả BS khi cho uống Vương Não Khang cũng phải nói thêm là cần kết hợp với các biện pháp giáo dục hay tâm lý.

    2/ Có loại bệnh nào mà cho đến nay hầu như những người có lương tâm, trách nhiệm và học thức đều thừa nhận là không thể chữa khỏi ?

    3/ Có loại bệnh nào mà ngay từ khi mới sinh ra, lớn lên, và đến khi chết đi vẫn còn tồn tại ? Trong khi đó, nếu gọi là tình trạng rối loạn (Disorder ) thì ta hoàn toàn có thể trả lời các câu hỏi trên một cách đơn giản vì không phải chỉ có tự kỷ, mà còn nhiều các hội chứng khác cũng như vậy ! Cũng không biết rõ nguyên nhân, không chữa được và kéo dài suốt đời.

    Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ là cái Tên ( gọi là bệnh tự kỷ ) mà là do vô thức của phụ huynh đã tạo ra một chuỗi các liên tưởng rất logic : Đây là một chứng bệnh, như vậy cũng như trăm ngàn các bệnh khác, chắc chắn sẽ phải có THUỐC CHỮA, CÁCH CHỮA và sẽ có ai đó có năng lực chữa lành.

    Ngoài ra, hầu như trong tâm lý của bất cứ ai – đều chỉ muốn TIN và làm theo điều mình MUỐN, chứ không thích tin vào những cái mình CẦN !  Khi nghe các y bác sĩ, các giáo sư tiến sĩ phán : Đây là bệnh tự kỷ – họ gật gù tin ngay, và không muốn nghe cái đoạn sau, nếu có : …nhưng là bệnh chưa có thuốc chữa hay không thể chữa khỏi !  Vì điều này, nằm ngoài cái mong muốn của họ và không nằm trong chuỗi suy luận của họ : Bệnh gì mà chẳng có thuốc hay phương pháp chữa ! Chẳng qua là khoa học chưa khám phá ra thôi. Như thế, khi có ai đó tuyên bố : Có thể chữa khỏi, thì ngay lập tức, họ sẽ TIN ngay, vì rõ ràng đó là điều họ MUỐN !

    Tuy nhiên, vấn đề không chỉ đơn giản như thế ! mà còn là ở chỗ chính các nhà chuyên môn chân chính, các chuyên gia bằng cấp đầy người và các giáo viên giáo dục đặc biệt, đầy nhiệt tình và tâm huyết đã vô tình đẩy phụ huynh vào việc PHẢI TIN cái điều không đáng tin, bởi vì chính phụ huynh đã bị mất lòng tin từ các nhà chuyên môn nghiêm túc !

    Tại sao lại thế ?

    Trước hết, có một điều mà ai cũng thừa nhận, đó là vai trò quan trọng của phụ huynh trong việc chăm sóc, giáo dục và can thiệp cho trẻ tự kỷ. Thế nhưng, một số chuyên gia thì ra sức cổ vũ cho các phương pháp rất khoa học, rất nghiêm túc và rất khó..hiểu ! Hơn nữa, khi họ quảng bá phương pháp này, thì lại phê phán phương pháp khác ! khi họ mở khóa huấn luyện phương pháp này, thì hầu đó sẽ là số một, thậm chí là phê phán những hướng dẫn mang tính cơ bản, tổng hợp là một cái lẩu thập cẩm. Nghĩa là, chỉ có mình đúng nhất ! Vậy phụ huynh sau khi đi học với vài chuyên gia như thế thì họ sẽ phải tin ai ?

    Bên cạnh việc thừa nhận vai trò phụ huynh, thì chính sự nhiệt tâm năng nổ của các giáo viên đặc biệt lại làm cho phụ huynh không còn dám tin vào chính mình, và các giáo viên cũng không thích để cho các phụ huynh xía vào công việc giáo dục đầy ý nghĩa và giá trị của mình. Thế là các phụ huynh sẽ đi tìm những giáo viên để có thể “ trút cái gánh nặng” và các giáo viên thì một mặt, vừa than thở cho cái “ ách tự nguyện” này, mặt khác lại rất vui mừng khi “ nhờ công sức rèn tập” của mình mà các con tiến bộ từng ngày, từ khi chưa biết ê a, rụt rẻ nhút nhát, giờ con đã biết nói những câu nói ngắn, đã biết điều này điều kia và tổ chức “ lễ ra trường” hoành tráng cho con bước vào lớp Một hòa nhập một cách tự tin !

    Việc làm của các giáo viên là hoàn toàn cần thiết và hợp lý, thế nhưng phải chăng sau khi con trẻ đã NÓI ĐƯỢC, đã đi HỌC ĐƯỢC, thì mọi việc sẽ kết thúc ? Bé sẽ có một cuộc sống bình thường ? hay là sẽ phải tiếp tục cố gắng hết sức trong tiến trình hội nhập, mặc chiếc áo trắng tinh tươm, vai đeo cặp sách đầy hãnh diện, kéo dài giai đoạn học sinh qua lớp Một, lớp Hai, lớp Ba và sau đó thì không thể bước lên được nữa vì sự chủ quan của bố mẹ, cho rằng con đã “thoát khỏi tự kỷ” ! mà quên rằng tình trạng rối loạn quan hệ xã hội và không thích nghi với các nguyên tắc sinh hoạt, giao tiếp đời thường của trẻ sẽ là một tình trạng kéo dài suốt đời !

    Có những em sẽ kéo dài được đến lớp sáu, lớp Bảy … trong tình trạng “làm ngơ” của các giáo viên, trong việc “làm lơ” của các phụ huynh không dám nhìn vào sự thật, là đứa trẻ vẫn còn rất nhiều các khó khăn trong các sinh hoạt hàng ngày mà họ đã quên không dạy dỗ.

    Đó là chưa nói đến, hàng loạt các cơ sở mang tên “ Trung tâm giáo dục hòa nhập” với hàng loạt các giáo viên đặc biệt không có đủ kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm về tâm lý trẻ, đã làm vỡ mộng rất nhiều các phụ huynh, đưa con đi can thiệp vài ba năm, mà vẫn chỉ là một con số 0 tròn trĩnh về nhận thức và hành vi ! Họ hân hoan đưa con đi học, sau đó, hết tiền, hết niềm tin, ngậm ngùi đưa con về ! vậy bây giờ họ sẽ phải TIN ai ? thôi thì ai cho họ điều họ muốn, thì họ cứ theo!

    Các nhà chuyên môn phê phán các lang băm, các nhà giáo dục phê phán những kẻ “mộng du” đã tạo cho phụ huynh những cái “ảo vọng” về tình trạng con mình , nhưng chính họ lại dẫn các phụ huynh đi từ những điều hy vọng vào những chương trình gọi là “ Can thiệp sớm” những phương pháp đầy khoa học và kỳ diệu như ABA, như RDI …cùng những bài tập Âm ngữ trị liệu đầy quyền năng …đi đến những thất vọng đắng cay mà không biết chia sẻ cùng ai, vì đâu có ai dám nhận mình là dốt, đâu có ai dám nhận mình là người không biết lo cho con!  Không những thế, họ còn mạnh miệng tuyên bố: Chỉ có chúng tôi mới được phép dạy về tâm vận động một cách độc quyền từ các chuyên gia nước ngoài, chỉ có chúng tôi mới đủ chứng chỉ để dạy về  More Than Words một cách chính thức  có công chứng tại tòa!

    Điều đó không có gì sai, vì các trung tâm và các chuyên viên đều có đủ thẩm quyền làm điều này. Thế nhưng, điều đó lại vô tình đẩy Phụ huynh ngày càng xa rời những điều họ cần phải có, đó là sự TỰ TIN, họ ngày càng mất niềm tin vào một môi trường giáo dục đầy tính khoa học và nhân văn mà lại cạnh tranh nhau không khác một cái “chợ trời” và ai cũng tự cho mình là đỉnh của đỉnh !

    Điều cay đắng là ai cũng nói một cách quả quyết, đây là một lãnh vực giáo dục liên ngành, xuyên ngành, phải có sự kết hợp giữa các nhà chuyên môn, từ các y bác sĩ đến các chuyên viên, đến các giáo viên đặc biệt nhưng trên thực tế thì họ lại hành động gần như độc lập, thậm chí là đối lập và phủ nhận nhau! Nếu có cùng nhau thì chỉ là những kết hợp vì quyền lợi, vì danh tiếng hay chỉ trong những giai đoạn tạm thời cần lợi dụng lẫn nhau.

    Phụ huynh mang con đến bệnh viện, phòng khám thì cũng xếp hàng cả tháng, vào khám 15 phút ra, đọc được  vài dòng chữ trên sổ khám bệnh: Theo dõi tự kỷ , có bệnh rối loạn phát triển, nhận một ít tài liệu và có thể được giới thiệu  đến các trung tâm, các phòng Tâm vận động để học ..cho vui ! Còn nếu không thì mang về ..tự xử ! Sau đó lại lếch thếch dẫn con đến các trung tâm “Can thiệp sớm” , nếu ở tỉnh thì lại phải thuê phòng trọ bên cạnh trường, vật vờ vài năm, và nhận được những lời có cánh từ các giáo viên : Con tiến bộ hàng ngày. Nhưng thực tế thì hầu như “ vũ như cẫn” Nếu không ý thức được vai trò, trách nhiệm và tự mình có những can thiệp vào con. Có thể nói, hầu hết các trường hợp trẻ tiến bộ, có khả năng về giao tiếp, ngôn ngữ là nhờ sự tác động kiên trì không mệt mỏi của những phu huynh sáng suốt, có khả năng tự học và tham gia các khóa tập huấn nghiêm túc, cùng những phối hợp thực sự với các giáo viên và chuyên viên có kiến thức và lương tâm.

    Nhưng trong xã hội này, có được bao nhiêu phụ huynh như thế, khi mà chính những nhà khoa học, giáo dục và y tế “chính quy” đã vô tình làm cho họ mất đi niềm tin vốn đã mong manh. Trong khi chính các lang băm lại có thể cho họ điều mà họ mong muốn ! Đó là phải thoát khỏi tình trạng này bằng mọi giá ! chỉ có điều, không phải là con “thoát tự kỷ” mà là phụ huynh “ thoát khỏi trách nhiệm” làm cha mẹ của các VIP này ! Tôi đã làm đủ các kiểu rồi nhé ! tôi đã vái tứ phương rồi nhé ! tôi đã đưa con đi khám khắp nơi rồi nhé ! và bây giờ xin hãy để tôi yên, hãy cứ để cho tôi sống trong cái ảo vọng, để mà hy vọng “ Đưa nhau trở lại thiên đường” !

    Ngày Chúa Giáng Sinh ! Ngày của Niềm Tin và Hy vọng.

    CVTL LÊ KHANH