Danh mục: Hội chứng Tự Kỷ

  • TỰ KỶ VÀ NỖI ĐAU ..GIAO TIẾP.

    TỰ KỶ VÀ NỖI ĐAU ..GIAO TIẾP.

    Đã từ lâu, ai cũng biết chứng tự kỷ là những rối loạn về phát triển – Nhưng vấn đề của trẻ không chỉ là sự khó khăn về diễn đạt, những hạn chế về nhận thức, cách xử lý cảm giác không ổn định, sự mất quân bình về cảm nhận bản thân … mà còn là những điều khiến cho trẻ tự kỷ bị hiểu lầm, bị kỳ thị và cô lập, xa lánh …đó là những vấn đề về giao tiếp với những người xung quanh, ngay cả với người thân trong gia đình.

    Con người là một sinh vật xã hội , phải được sống và lớn lên trong cộng đồng –từ cộng đồng nhỏ bé nhất là gia đình, cho đến những cộng đồng học đường và xã hội – Ai cũng biết câu “ Mồm miệng đỡ chân tay” những người dẻo miệng, hoạt ngôn thường chiếm được nhiều ưu thế trong cuộc sống – Không phải là họ giỏi, họ có tài gì nhưng nhờ khéo nói – có thể sẽ chiếm được nhiều cảm tình với mọi người, dễ nhận được sự ủng hộ thậm chí là tung hô của người khác.  Dale Carnegie chỉ nhờ khéo miệng và có tài viết, đã thành công trong thương trường và viết ra những cuốn sách dạy cách xử thế ( Đắc Nhân Tâm ) bán chạy nhất thế giới. đem lại sự thành đạt cho nhiều người.

    Nhưng với trẻ Tự kỷ, thì khéo miệng, giỏi ứng xử là điều không tưởng – Có một diễn giả tài năng,đi khắp thế giới phổ biến  một phương pháp can thiệp cho trẻ Tự kỷ, thu hút được hàng ngàn người đến nghe, đã tự nhận mình là tự kỷ, nhờ phương pháp này mà khỏi hoàn toàn, và còn trở thành người giảng dạy – truyền lửa cho phụ huynh với một cái giá không hề rẻ ! Có thể đó là một trường hợp hãn hữu có một không hai ! Vì người tự kỷ có thể cũng thành công trong một số ngành nghề – nhưng chưa hề có ai thành công về khoa ăn nói !

    Không chỉ là kém ăn nói, không xử lý được các vấn đề về ngôn ngữ , mà đứa trẻ hay người tự kỷ còn không thể hiểu được những câu nói đùa, những lời nói dối một cách tự nhiên và dĩ nhiên là cũng không hề biết nói dối mà khiến cho mọi người tưởng là thật. Cũng chính vì kém cỏi  từ cách diễn đạt, cho đến vụng về trong cách ứng xử , nên cho dù có được can thiệp, trị liệu tốt đến đâu thì người tự kỷ cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường, hay trong một cộng đồng có sự bao dung, hiểu biết và chấp nhận sự kém cỏi của họ qua những cách ăn nói thật thà đến ngây ngô, dễ mất lòng khi chỉ biết dùng những từ cộc lốc, hay ngược lại, dài dòng lôi thôi, nhiều lời mà ý nghĩa chẳngcó gì !

    Tự kỷ là một rối loạn phức tạp – không chỉ đơn thuần qua những biểu hiện như hạn chế ngôn ngữ, rối loạn hành vi và bất ổn về nhận thức, mà nó còn rất nhiều những vấn đề xung quanh chuyện ứng xử và giao tiếp của những đứa trẻ này. Có trẻ thì học hành tốt, thậm chí là giỏi ! Nhưng trong lớp không biết chơi với ai, có giao tiếp thì chuyên môn bị bạn bè bắt nạt và lợi dụng. Trẻ có thể thích bạn này, ghét bạn kia , nhưng không biết cách làm cho những bạn mà mình thích được vui lòng, để có thể thích lại mình – Trẻ có thể dễ dàng bi bạn cho vào tròng, để trở thành thủ phạm trong các trò quậy phá làm thầy cô khó chịu, dù thực sự trẻ chỉ là nạn nhân .

    Đã thế, trẻ lại có những sở thích và những cử chỉ không giống ai – điều này thì tùy vào mức độ mà sự bộc lộ về sở thích và các hành vi kỳ quái có rõ nét hay không ! Lúc nhỏ, trẻ có thể rất mê các loại xe đồ chơi – lớn lên thì lại say mê các loại huy hiệu , logo của xe hơi – chỉ cần nhìn qua một cái là biết ngay xe gì, hiệu gì – Có trẻ thì lại thích về lịch sử các cuộc chiến tranh hay sưu tầm ..các loại côn trùng . Rất đa dạng, phức tạp và …không giống ai !

    Có lẽ trên thế giới, những nghiên cứu và các phương pháp can thiệp về tự kỷ chiếm một tỷ lệ không nhỏ, hàng năm lại có một ngày Thế giới nhận thức về chứng tự kỷ – thế nhưng cho đến nay, hàng cả trăm năm đã trôi qua kể từ khi BS Jean Marc Itard phát hiện ra tình trạng này từ những năm 1774 cho đến nay, thì Tự Kỷ vẫn chưa được thấu hiểu một cách trọn vẹn ! Thậm chí là ngay cả Các cẩm nang gối đầu giường cho các nhà chuyên môn là ICD 10 – và DSM IV cũng chưa có được một thuật ngữ hay định nghĩa đúng nhất về tình trạng này, để rồi đến khi phiên bản DSM 5 ra đời , người ta lại có vài sự sắp xếp để phân loại các chứng tự kỷ này khác với các phiên bản cũ . Biết đâu, vài năm nữa lại có DSM 6 ra đời và lại sắp xếp các khái niêm về tự kỷ một lần nữa ?

    Để chẩn đoán một đứa trẻ tự kỷ, người ta đòi hỏi phải do các nhà chuyên môn được phép đánh giá, và phải có đủ các dấu hiệu cần thiết …. Thế nhưng, nếu không đủ các dấu hiệu này, hay có những dấu hiệu cá biệt khác – Bởi vì cũng như dấu vân tay, chưa có trẻ tự kỷ nào giống hệt nhau về mức độ và biểu hiện và vì thế , nếu không gọi là tự kỷ thì sẽ gọi là gì ?

    Cái dấu hiệu rõ nhất chính là khả năng giao tiếp xã hội – khả năng thích nghi và linh hoạt – khả năng kiểm soát cảm xúc và ý chí vượt khó mà hầu hết các trẻ tự kỷ đều yếu kém, nếu không muốn nói là không có ! Trẻ có thể được phát hiện sớm, can thiệp tích cực bằng các phương pháp khoa học – Trẻ trở lại ở mức độ “gần như” là bình thường – đi học được, nói năng được, nhiều cảm xúc, khả năng ứng xử cũng tốt – nhưng sau khi vượt qua đươc “cửa ải” lớp Một – vào học từ lớp Một cho đến lớp Năm, trẻ cũng có thể “vượt qua” với sự châm chước – mặc dù năm nào thì bố mẹ cũng phải vào lớp, mua chuộc từ bạn bè cho đến các thầy cô, để “thông cảm” cho em nó ! Bố mẹ vất vả ngược xuôi để “chạy” cho con một chỗ ngồi trong lớp – cả việc chạy một cái giấy “chứng nhận khuyết tật trí tuệ” để được “qua phà” trong các môn học đòi hỏi sự tương tác – Có những em rơi rớt dọc đường, có những em lên được các lớp ở cấp 2, thậm chí cấp 3 . Thế nhưng, hàng năm, hàng tháng và cả hàng ngày, bố mẹ phải “nghiến răng” trào nước mắt – để đỡ đòn cho con trong “cuộc chiến giao tiếp và ứng xử”  với bạn bè chung quanh và cả thầy cô trong trường !

    Có những chuyện hết sức là bình thường, đơn giản với những trẻ khác – nghịch ngợm, hỗn láo, lười biếng, học dốt … thầy cô, bố mẹ đều có “thuốc chữa” được hết.  Tùy theo mức độ mà có những biện pháp kỷ luật thích ứng – Nhưng với trẻ tự kỷ thì không ! Những lý lẽ và những lời khuyên đầy tính nhân văn và đạo đức, hay những biện pháp kỷ luật như đòn roi, cấm túc, bắt chép phạt, đuổi ra khỏi lớp …thậm chí là đuổi học đều có thể có tác dụng với mọi học sinh trừ khi đó là một bạn tự kỷ. Bố mẹ các em đã trải qua trăm cay nghìn đắng, để có thể đưa em vào trong một lớp học … nhưng sẽ có một ngày chỉ vì một hành vi, dù đó là hành vi không thể chấp nhận được ở một trẻ bình thường như chuyện hỗn láo với thầy cô, hay bùng nổ với đủ mọi hình thức khi vượt quá ngưỡng chịu đựng của em – thì có thể lại phải đưa con  quay về nhà, để bố mẹ “sống chung cùng tự kỷ”

    Trong luật pháp của bất cứ nước nào có nhân quyền – thì người ta không bao giờ buộc tội một người tâm thần về những hành vi do họ gây ra !  Thế nhưng, tự kỷ có là bệnh tâm thần không ? Đúng và không đúng  ! Đúng là vì nó được sách DSM 5 xếp vào trong nhóm các bệnh về tâm thần – không đúng là vì người ta không thể “cách ly xã hội” hay nhốt các em vào trong các BV Tâm Thần – trừ những trường hợp nặng phải được chăm sóc riêng – Nhưng người ta cũng không thể kiểm soát hết các hành vi  một khi đã bùng nổ ở các em . Điều tốt nhất là đừng tạo cơ hội cho các hành vi đó bùng nổ và khi nó đã xảy ra, thì hãy biết chấp nhận và giải quyết một cách đơn giản nhất trong khả năng có thể. Đã có những người tự kỷ khi ra ngoài đường phải đeo tấm bảng : Tự kỷ – xin đừng đánh ! Bởi vị họ không biết giao tiếp, ứng xử và không kiểm soát nổi các hành vi kỳ quái của chính mình.  Cũng đã có những học sinh, dù được chấp nhận cho vào lớp, nhưng vẫn bị cô lập, bỏ rơi và thậm chí là bị buộc cho những cái tội mà chính bản thân em cũng không hiểu đó là cái tội gì ?.

    Một trường hợp – vi phạm đạo đức không thể chấp nhận được là tát cô giáo khi bị cô tịch thu điện thoại – có thể đó là một học sinh “ vô kỷ luật” “mất dạy” do được bố mẹ cưng chiều, mà đã dẫm lên những giá trị đạo đức , đủ để bị kỷ luật bằng các hình thức cao nhất ! Thế nhưng, nếu như đây là một học sinh có yếu tố tự kỷ, không kiểm soát được hành vi của mình thì sao ?  – Dư luận ồn ào đưa ra  đủ loại mức án khác nhau – Trong đó không thiếu có những lời phán xử , chứng tỏ sự kỳ thị và sự kém hiểu biết về chứng tự kỷ còn rất nhiều trong cộng đồng – Tự kỷ hả ? nhốt nó vào bệnh viện tâm thần – Tự kỷ gì nó, láo hỗ như thế mà gọi là bệnh à ?  Chạy được cái giấy rồi muốn làm gì thì làm à …v.vvv Rất nhiều thành kiến, rât nhiều sai lệch không chỉ đến từ những kẻ chuyên đấu tố trên mạng, mà ngay cả ở các nhà giáo dục, các chuyên gia …. Cũng không thể lý giải nổi những khó khăn, hạn chế và phức tạp về tình trạng “mất quân bằng trong ứng xử” của các bạn VIP .

    Khổ thay, các Phụ huynh cũng không còn biết chọn lựa như thế nào khi con mình là một đứa trẻ đặc biệt. Họ đã xù lông nhím để bảo vệ con về mọi mặt, họ cũng đã lên bờ xuống ruộng trong việc tìm thầy tìm thuốc, tìm trường cho con – để hy vọng con thoát được chứng tự kỷ, hòa nhập xã hội như bao nhiêu lời nói có cánh của các giới có thẩm quyền đã đưa ra, đã hứa hẹn ! Nhưng còn sự kỳ thị và hiểu lầm về khả năng ứng xử kém cỏi của con thì họ …chịu !  Sau khi tai nạn ( đánh bạn, đánh thầy cô hay có các trò kỳ cục khác ) trong một thời điểm nào đó, thì họ chỉ biết ..bê con về nhà ! tan tành giấc mộng hòa nhập !

    Thế nhưng, tại sao không nghĩ khác đi , làm khác đi và đối xử với trẻ tự kỷ khác đi – Yêu thương ? được – thấu hiểu ? à cũng hơi khó , nhưng cũng ráng – Tôn trọng ? Đùa à , cái thằng to đùng mà đầu óc như trẻ lên ba, không biết cách cư xử, hỗn hào láo lếu mà kêu là phải tôn trọng ? Còn chấp nhận ? Không bao giờ ! Giá nào cũng phải “trị liệu” phải chữa cho khỏi ! Vâng – xong rồi ạ ! Tự kỷ vẫn là tự kỷ – Hàng năm vẫn rần rộ tổ chức nào là chạy bộ vì tự kỷ, nào là in khăn may áo, viết khẩu hiệu vì tự kỷ …. Nhưng vẫn cứ phải lên TV để giải thích – theo DSM 5 thì những dấu hiệu của tự kỷ là ..ABCD, và phải can thiệp, giáo dục để trẻ tự kỷ có thể hòa nhập cộng đồng . Còn nó có hòa hay có nhập được hay không thì kệ nó, đó là chuyện của gia đình và bố mẹ các em phải lo, không phải là chuyện của nhà chuyên môn .

    Hành trình hòa nhập cho trẻ tự kỷ còn xa lắm – 10 năm, 20 năm hay hơn nữa cũng thế thôi nếu chúng ta không thay đổi ? Thay đổi cái gì ? thay đổi cách ứng xử với các em – chứ đừng bắt các em phải thay đổi cách ứng xử vì chúng ta ! Đơn giản như đang giỡn – nhưng không hề dễ dàng ! Vì phá vỡ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ nhân nguyên tử –  Hành trình tạo cho trẻ tự kỷ một cộng đồng biết yêu thương, thấu hiểu và tôn trọng trẻ tư kỷ vẫn còn rất dài và rất xa, vẫn còn là ước mơ . Nhưng nếu chúng ta đi cùng nhau – chúng ta sẽ làm được ! Tôi đã hiểu – còn bạn ?

    Lê Khanh

    Trung Tâm GDĐB  Diệp Quang – An Giang

    Bắt đầu cho  hành trình trong năm mới – sau một năm khởi hành !

  • CHƠI VỚI TRẺ TỰ KỶ

    CHƠI VỚI TRẺ TỰ KỶ

    “Đồ chơi là từ vựng và chơi là ngôn ngữ của trẻ con.”

    Chơi là một trong những cách thức can thiệp cho trẻ tự kỷ từ 3 -12. giáo viên hoặc phụ huynh nên tạo cơ hội và dành thời gian chơi cùng trẻ trong những căn phòng có các công cụ khác nhau để hỗ trợ các em về mặt vận động , hành vi, học tập  và giải trí .

    Đối với trẻ tự kỷ việc chơi chẳng dễ chút nào. Nhiều phụ huynh bỏ cuộc vì điều kiện kinh tế eo hẹp, không gian có giới hạn, nhất là phải vật lộn kiếm sống. Nói chung, chơi với trẻ tự kỷ đòi hỏi người dẫn dắt phải có sự nhẫn nại và bền chí, hiểu rõ và chấp nhận cách chơi của các em qua từng giai đoạn khác nhau. So với các trẻ bình thường và cùng độ tuổi, cách chơi của trẻ tự kỷ thường đơn điệu, thiếu sự nhập vai và diễn đạt có ý nghĩa, bởi đa số thường bị cuốn hút vào những vật thể không phải là đồ chơi, và nếu có chơi thì đó chỉ là sự mê mẩn, tự kích với vài bộ phận của một số đồ chơi nào đó, chẳng hạn thích tháo rời bánh xe, quay vòng chong chóng của máy bay …

    Mình nhớ, khi vip còn nhỏ, có nhiều ngày mình và con vào những cửa hàng nổi tiếng ở Quận Cam, California, để mua sắm thật nhiều đồ chơi theo sở thích của nó. Về nhà, vợ mình tuy mừng ra mặt vì con bắt đầu biết nói và biết chơi, nhưng lại trách mình phí tiền, mua nhiều loại đồ chơi vô bổ, có thể gây hại đến sức khỏe của con..

    A, có lần mình cho con chơi một mình và ra ngoài hút thuốc, lúc trở lại mình thấy thằng bé đang nhai ngon lành mấy chiếc xe nhựa. Sợ quá, mình vội lấy tay moi từng mảnh vụn từ miệng nó, rồi quyết định vất hết những thứ rẻ tiền, made in China ấy vào thùng rác. Kể ra, đó cũng là bài học đầu đời của mình khi dạy con chơi, và nhờ vậy, từ đó mình cẩn thận, biết chọn lựa những loại đồ chơi an toàn, lúc nào cũng kề cạnh và quan sát cẩn thận.

    Đương nhiên, chơi với trẻ tự kỷ là giúp các em phát triển kỹ năng vận động thô  và vận động tinh kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp xã hội, biết suy nghĩ và giải quyết vấn đề trong sinh hoạt, học tập.  Tuy nhiên, nhiều trẻ tự kỷ có khả năng chơi rất hạn chế, chỉ chơi và chơi hoài với vài thứ quen thuộc, hoặc chơi có tính cách lặp đi lặp lại, không có chủ đích . Cho nên, các chuyên gia cho rằng điều quan trọng nhất chính là giáo viên, phụ huynh phải hiểu kiểu chơi, cách chơi như thế nào cho phù hợp với khả năng hiện tại của con em

    Kiểu chơi với trẻ tự kỷ rất đa dạng, tùy vào từng giai đoạn phát triển và bao gồm:

    1) Kiểu chơi dựa vào cảm giác : đừng nản lòng khi thấy trẻ trải nghiệm cảm giác bằng cách nhìn chăm chăm,  nhặt lên rồi nếm, ngửi, ném xuống đất. Vật thể gây sự chú tâm cho trẻ tự kỷ không chỉ là đồ chơi, mà còn là bất cứ những gì trẻ tìm thấy quanh mình.

    2) Kiểu chơi tìm hiểu  Trẻ  tự kỷ muốn khám phá sự khác lạ của vật thể trên sàn. Ví dụ, trẻ thích bức tóc búp bế, xé nát gấu bông, nhai liếm xe, tầu lửa. Ở giai đoạn nầy, trẻ tự kỷ bắt đầu muốn khám phá sự khác biệt về mầu sắc, hình thể, kích cở của vật thể, và cách hay nhất là phụ huynh nên tạo cơ hội cho trẻ tự kỷ khám phá nhiều điều mới lạ hơn.

    3) Kiểu chơi có tác động khi sờ chạm Một số đồ chơi có thể áp dụng để dạy trẻ tự kỷ biết hành động như thế nào để tạo nên kết quả trẻ mong muốn. Chẳng hạn, trẻ ấn nút thì tầu lửa sẽ rú lên và chạy, hoặc trẻ đè mạnh tay thì hình thú trong hộp sẽ trồi lên, hay trẻ dùng miệng thổi thì bong bóng nước sẽ bay ra Kiểu chơi nầy dạy trẻ biết hành động và làm chủ tình huống. Người dẫn dắt cần hướng dẫn trẻ điều khiển hay tác động vật thể bằng cách khuyến khích, khen ngợi sự hợp tác của trẻ, rồi dựa vào đó để dạy trẻ biết đòi hỏi sự giúp đỡ hay chờ đợi đến lượt mình. Ví dụ, người lớn làm mẫu một trò chơi, rồi dừng lại, nói trẻ bắt chước làm theo.

    4) Kiểu chơi có chủ đích Chơi có chủ đích đòi hỏi trẻ phải chơi đúng với ý nghĩa của đồ chơi. Ví dụ: Trẻ tự kỷ đập phone giả xuống sàn thay vì áp phone vào tai vờ nghe alô, hay cắn nát banh nhựa thay vì đá và rượt đuổi. Nếu trẻ tự kỷ chưa biết chơi có chủ đích thì cách hay nhất là người dẫn dắt nên ngồi đối diện, cho trẻ những đồ chơi trẻ thích, và nhập cuộc. Nếu trẻ thích quay vòng bánh xe, hãy lấy chiếc khác lật lại và đẩy chạy trên sàn, miệng giả tiếng “brrm, brrm” để gây sự phấn khích cho trẻ. Nếu trẻ không tỏ ra thích thú hay bắt chước thì lấy tay trẻ đặt lên xe, đẩy đi và nói: “Nè, đẩy xe nè! Xe chạy rồi! Giỏi, giỏi quá!”

    Ghi chú: Trẻ tự kỷ phải biết cách chơi có chủ đích và đúng với ý nghĩa của đồ chơi trước khi bước vào những kiểu chơi mới, phứt tạp hơn.

    5) Kiểu chơi có tính cách xây dựng  Đây là giai đoạn trẻ biết lắp ráp hình ảnh, hình khối hoặc tô mầu, vẽ tranh. Nhiều em tỏ ra có năng khiếu và yêu thích những hoạt động nầy .. Khả năng chơi xây dựng càng cao thì nguy cơ bị khuyết tật trí tuệ đi kèm của trẻ tự kỷ càng thấp. Kiểu chơi nầy có thể là thước đo trí tuệ đáng tin cậy.

    Mình nhớ, khi vip được 3 tuổi rưỡi, nhờ vào sự quan sát và biết vip có sở thích ráp hình, xây hình khối trên sàn nên mỗi ngày mình cố gắng dạy vip mầu sắc, số đếm bằng xe, tầu lửa, rồi dạy vip đọc và nhận dạng những từ vựng đơn giản, rồi ráp thành câu bằng những hộp chữ có sẵn khuôn và hình ảnh đi kèm. Mình khá thành công qua lối chơi nầy với vip.

    6) Kiểu chơi đòi hỏi sự vận động chân tay Lên xuống cầu thang, chạy nhảy, đi xe đạp, chơi đùa ngoài trời như ném banh, xích đu, cầu tuột có thể giúp trẻ phát triển cơ bắp lớn.

    7) Kiểu chơi giả vờ : Cho gấu bông ăn, cỡi ngựa, lái xe, mặc áo quần đóng vai người hùng, làm cảnh sát, thủy thủ là những trò chơi cần sự nhập vai và giàu tưởng tượng . Khác với những trẻ bình thường, chơi giả vờ là kiểu chơi khó nhất đối với trẻ tự kỷ.

    Tuy nhiên, người hướng dẫn có thể dùng hình ảnh và phân đoạn trò chơi thành từng bước nhỏ dễ hiểu để dạy trẻ tự kỷ phát triển thêm những kỹ năng ngôn ngữ, giao tiếp xã hội.

    8) Kiểu chơi  giao tiếp xã hội  Việc tạo điều kiện, khuyến khích trẻ tự kỷ hợp tác và chơi theo từng nhóm nhỏ là điều rất khó thực hiện, bởi vì trẻ tự kỷ có khuynh hướng chơi một mình hoặc chơi song hàng nhưng không nhập cuộc . Điều nầy có thành công hay không còn tùy thuộc vào kinh nghiệm của người dẫn dắt, nhất là khả năng giao tiếp, thích hòa đồng của con em.

    9) Kiểu chơi có tính cách chia sẻ . Trẻ em đưới 3 tuổi chưa biết  chia sẻ đồ chơi cho nhau . Các giáo viên có thể tập cho trẻ biết nhường nhịn và chờ đợi đến lượt mình bằng những trò chơi đánh đu, cầu tuột, đi xe đạp và chuyển đổi kiểu xe cho nhau.

    10) Kiểu chơi có tính cách hợp tác và tuân theo qui luật  Cách chơi nầy đòi hỏi trẻ tự kỷ phải có sự phát triển về khả năng ngôn ngữ .Ở trường, các trẻ tự kỷ gặp nhiều trở ngại khi cùng nhau xây các tòa nhà cát , chơi trốn tìm, cùng nhau nhặt bi, sỏi mầu. Trẻ hầu như không biết cách chơi này, cần phải dựa trên sở thích để  dạy con hiểu luật lệ, biết chờ đợi đến lượt mình, chấp nhận thắng và thua không cay cú. ..

    Việc hỗ trợ để trẻ biết Chơi đòi hỏi sự kiên trì, kể cả sự tốn kém, và mất thời gian.  Việc chọn lọc công cụ , quan tâm đến  sự an toàn, biết dựa vào sở thích cá biệt của trẻ, từ đó tạo nên hứng khởi qua những hoạt động  hằng ngày ở gia đình là những yếu tố cần thiết giúp trẻ tự kỷ chơi mà học, học mà chơi có hiệu quả nhất.

    DANANG HO ( Phụ huynh trẻ Tự kỷ )

  • NHẬN BIẾT VỀ TỰ KỶ

    NHẬN BIẾT VỀ TỰ KỶ

    Hôm nay là ngày 2/4/2020 –  Ngày được thế giới chọn là  ngày Nhận Thức về Tự Kỷ . Với góc độ tâm lý, xin không nói lại những kiến thức về Tự Kỷ  – mà rất nhiều cá nhân, đơn vị, đoàn thế đã đề cập – đã nhắc lại trong ngày hôm nay.

    Chỉ bàn về hai chữ “Nhận Thức”  – là sự hiểu biết có ý thức về tự kỷ ! Tự kỷ là rối loạn phát triển, là khó khăn về giao tiếp, ngôn ngữ , hành vi…. Ai cũng biết ! Nhưng vẫn có 2 nhóm người chưa biết đúng  – nhóm thứ nhất là các ông bố, bà mẹ của trẻ tự kỷ . Tuy rằng  có nhiều phụ huynh còn giỏi hơn các nhà chuyên môn về việc nhận ra những vấn đề hay triệu chứng của con , nhưng có nhiều người vẫn chưa thể hay chưa muốn chấp nhận điều nhận biết đó với hai tâm thế : Một là cứ nhất quyết con mình là tự kỷ khi mới chỉ căn cứ vào một vài dấu hiệu nào đó dựa vào các thông tin trong sách vở và trên mạng ! Một là cứ nhất quyết con mình không phải tự kỷ, dù ở trẻ đã có gần đủ các yếu tố cần thiết về tình trạng này.

    Nhưng dù cho rằng biết hay chưa muốn biết, thì họ vẫn mơ hồ về hai điều : Liệu con mình có trở lại bình thường hay không ? và tương lai con mình như thế nào ?! Để rồi từ đó họ gần như “lao đầu vào một cuộc chiến mà không biết mình đang chống lại cái gì, bằng cách nào và với công cụ gì ! Có nhiều người quyết tâm sống chết với cái nhãn Tự kỷ – họ tự phong hay được phong là chiến binh tự kỷ , họ hô hào mọi người, họ hăm hở học tập, họ hăng hái dạy con hết phương pháp này đến kỹ thuật khác, họ hồ hởi nói lên sự tiến bộ của con hàng ngày, hàng tuần, tưởng chừng như cái đích “ thoát tự kỷ” và “hội nhập xã hội bình thường” đã gần lắm rồi.  Nhưng trên thực tế thì sao ? Câu trả lời xin để dành cho các phụ huynh tự ngẫm !

    Như vậy, phải chăng là trẻ không thể trở lại trạng thái bình thường sao ? Như vậy tương lai con tôi là dấu chấm hết khi đã là một trẻ tự kỷ hay sao ? Nếu nhìn trên bình diện cuộc sống thì có vẻ là như vậy, khi mà dù có can thiệp đến mức nào đi nữa, thì trẻ cũng chỉ có thể bình thường ở một vài phương diện, thậm chí là xuất sắc , nhưng vẫn còn nhiều lĩnh vực – nhất là lĩnh vực giao tiếp xã hội thì vẫn còn rất yếu kém. Thế nhưng, nếu ta nhìn rộng ra một chút – thì đâu phải chỉ có trẻ Tự kỷ là yếu kém trong ngôn ngữ, trong giao tiếp xã hội, mà có rất nhiều  đứa trẻ khác, kể cả các thanh thiếu niên và người lớn, cũng rất vụng về, lúng túng trong giao tiếp, rất dở về khoa ăn nói và rất dễ làm cho người khác khó chịu về cái tật “ nói thẳng – nói thật” hay “cố chấp” của mình – Bởi vậy, nếu lấy cái chuẩn là khả năng ngôn ngữ lưu loát – thì khối người sẽ được gọi là tự kỷ !  Thế mà, những người đó hầu như lại được người xung quanh chấp nhận, dù cũng khá  phiền lòng, nhất là khi họ là người thân của các đấng “gàn bát sách” này. Nhưng họ cũng có thể thông cảm được mà ! Thế nhưng, bố mẹ của trẻ tự kỷ và cả những người xung quanh thì lại không chấp nhận một đứa trẻ ăn nói dở hơi , không chịu học hành cho nghiêm túc. Họ phải rèn bằng mọi cách – và đối xử với lòng thương hại hoặc tệ hơn là bằng sự kỳ thị . Chính vì sự kỳ thị đó nên mới có ngày dành cho trẻ tự kỷ, chứ không có ngày dành cho trẻ dở hơi !

    Còn nói về tương lai cho trẻ tự kỷ, quả thật là trẻ tự kỷ và khi lớn hơn là người tự kỷ, rất khó mà có một cái gọi là tương lai sáng sủa như những người bình thường ! À, thế nhưng một đứa trẻ bình thường, học hành tử tế, liệu có được một tương lai sáng sủa hay không ? Ai dám nói chắc ? Thậm chí, có khi học giỏi, tốt nghiệp đại học ra đàng hoàng, cũng có dám nói là sẽ có nắm chắc tương lai sáng sủa trong bàn tay hay không?

    Tại sao phụ huynh lại quá lo lắng cho tương lai của đứa con tự kỷ khi mà ngay chính một đứa con bình thường, chúng ta vẫ chưa dám chắc là nó sẽ có một tương lai tốt đẹp ! Chính vì cái lo lắng cho một điều không thể lo lắng ấy, mà chúng ta đang ôm vào lòng  rất nhiều sự lo lắng và cũng làm cho đứa con tự kỷ đáng yêu của mình cũng lo lắng..lây và đau khổ thay, nó lại không thể hỏi hay nói ra được!

    Có một thực tế đáng buồn là bố mẹ các trẻ tự kỷ ở mức độ nhẹ, thường tỏ ra ngần ngại khi cho con can thiệp ở một cơ sở có các trẻ tự kỷ hay tăng động kém chú ý có mức độ nặng hơn . Họ cho rằng, con họ có thể bị lây nhiễm các hành vi phá phách, bất ổn của các trẻ này. Rõ ràng là trẻ ở mức nhẹ và nặng không thể học chung trong một nhóm, nhưng thực ra, việc phân chia mức độ nặng nhẹ, là để cho việc xây dựng mục tiêu can thiệp cho hợp lý, và để đảm bảo cho mỗi trẻ đều có được những biện pháp thích hợp, chứ không phải là e sợ  sự lây lan, bắt chước hành vi của nhau sẽ làm cho việc can thiệp khó khăn hơn, hay trẻ sẽ bị ..nặng hơn vì chuyện bắt chước đó. Đúng là trẻ có thể bị nặng hơn, căng thẳng hơn nhưng không phải vì bắt chước trẻ khác, mà là do trẻ  bị lây niễm cái bầu khí lo âu, căng thẳng, mệt mỏi của những người xung quanh, đặc biệt là với người mẹ trong gia đình và người với giáo viên trực tiếp can thiệp cho trẻ nếu họ thường xuyên dạy trẻ bằng sự thờ ơ, khó chịu, mệt mỏi và vô tâm!

    Vì thế nếu  trẻ bị thay đổi môi trường chăm sóc, thay đổi người giáo viên, người bảo mẫu đã gần gũi, đã chăm sóc và thiết lập được mối tương tác yêu thương, gắn bó với trẻ. Khi đó trẻ sẽ rất khó chịu, rất căng thẳng, dễ gây hấn, bùng nổ, hoặc trẻ cũng rất khó tiến bộ nếu cứ phải chịu đựng tình trạng lo âu, mệt mỏi, thiếu sự quan tâm của bố mẹ trong gia đình . Thế nhưng, đó có phải là đặc điểm của trẻ ViP không? Hãy thử xem như chúng ta, nếu phải xa cách người yêu, nếu phải thay đổi nơi cư trú, nếu cứ phải ở bên cạnh một người vô tâm, hay lo lắng, càu nhàu khó chịu, liệu chúng ta có sốc không ? Có lo lắng, có đau khổ không ? có bực mình dể nổi nóng không?  Chỉ khác chăng, là chúng ta nhận biết được điều đó, và cũng có thể nói ra được điều đó và tìm cách xử lý  – còn trẻ tự kỷ thì chưa thể, chưa biết bộc lộ, tỏ bầy và bé lo lắng, căng thẳng vì cái điều chưa biết tỏ bầy đó thôi.

    Nếu soi cho kỹ, xét cho cùng thì tình trạng rối loạn ngôn ngữ, hành vi, nhận thức và khó khăn trong giao tiếp xã hội của trẻ tự kỷ đúng là một vấn đề cần phải giải quyết, nhưng không thể chỉ giải quyết bằng các phương pháp “chất lượng cao” mà còn phải kèm theo đó là cách ứng xử phù hợp  – nhưng đó cũng là một tình trạng mà chúng ta phải chấp nhận, hay nói đúng hơn là biết cách ứng xử cho phù hợp.  Như vậy, có thể nói nhận biết về chứng tự kỷ không chỉ là biết về các triệu chứng, dấu hiệu mà phải là một thái độ chấp nhận và không kỳ thị về những hành vi không bình thường của trẻ tự kỷ – vì trong một chừng mực, đó là chuyện bình thường giống như phản ứng, thái độ của bất cứ đứa trẻ nào khi rơi vào các hoàn cảnh như thế.

    ! Chúng ta có thể chia sẻ, phổ biến cả trăm dấu hiệu về Tự kỷ để cho mọi người nhận biết, nhưng nếu chưa thuyết phục được chính các Phụ huynh, các nhà chuyên môn và các thành phần trong xã hội, qua sự trao đổi, chia sẻ, trình bầy để họ có thể xem các hành vi, các phản ứng, các cách ứng xử của trẻ tự kỷ là bình thường thì công việc truyền thông của chúng ta là vô ích. Hiểu về tự kỷ không có nghĩa là đeo lên người một logo, treo trên tường FB của mình một dấu hiệu màu xanh… mà chính là thái độ tôn trọng và chấp nhận các trẻ tự kỷ, các người có tình trạng tự kỷ, có được một chỗ đứng trong xã hội !

    Các chứng trầm cảm, rối nhiễu tâm lý, hay các bệnh tâm thể ở trẻ nếu được trị liệu tâm lý đúng cách sẽ bình phục với thời gian – Nhưng với chứng tự kỷ, nó không chỉ là một tình trạng rối nhiễu tâm lý hay một căn bệnh có thể chữa khỏi dù lâu hay nhanh. Nó cũng không phải là một khuyết tật không thể điều trị, không có thuốc chữa , mà Tự kỷ cần được xem là một phong cách, một tính chất và chỉ có thể cải thiện qua mối tương giao hai chiều với sự chấp nhận, cảm thông và tôn trọng lẫn nhau.  Các phương pháp can thiệp về ngôn ngữ và hành vi là điều cần thiết nhưng chưa đủ, nếu chúng ta cứ tập trung vào việc điều chỉnh và uốn nắn các triệu chứng, mà không  tạo cho các em niềm vui được sống và hoạt động trong một môi trường phù hợp với sự thấu hiểu và yêu thương ngay với các biểu hiệu, hành vi mà ta gọi là bất thường. Đó mới là giá trị đích thực nếu chúng ta đã hiểu về Tự kỷ.

    Sài Gòn mùa Covid 19

     

  • Xử Lý Hành Vi hay Can thiệp Nhận Thức

    Xử Lý Hành Vi hay Can thiệp Nhận Thức

    Hàng ngày theo dõi tâm tư của các phụ huynh, đọc được bao nhiêu là nhu cầu, là lo lắng về tình trạng của con mình, đại khái như :
    Con gọi biết quay lại nhưng vẫn còn những hành vi chưa dứt đượf như là hay ngó nghiêng và còn có hành vi thường xuyên nắm chặt 2 bàn tay lại ,đưa lên trước miệng rồi la hét …
    Hôm nay là buổi đầu con đi học trường công, con 3 tuổi.các cô kêu quá trời.các bạn nói được hết rồi mà con em chưa biết gì.k chịu ngủ. nghịch phá đủ các kiểu .Có lẽ em cho con nghỉ trường công thôi !
    Cháu nhà mình 22 tháng tuổi , giờ cháu đang có biểu hiện gọi ko thưa , ko quay lại và ít giao tiếp bằng ánh mắt , cháu chưa nói đượd từ nào và hay chạy đi chơi 1 mình .


    Ngoài ra còn có Phụ huynh inbox ngay từ sáng sớm, hỏi miên man về các hành vi và tình trạng của trẻ từ câu này qua câu khác trong khi tớ chỉ biết về bạn qua vài thông tin và một cái video clip quay lại một số hành vi của trẻ thì làm sao có thể xử lý được hết các hành vi của trẻ ?
    Tất cả các lo lắng ấy thực sự khó có thể trao đổi, chia sẻ một cách đầy đủ. Nếu chỉ trả lời qua loa hay như một số các góp ý khác thì cũng chỉ là sự đồng cảm, hoặc có khi là một vài biện pháp không phù hợp ! Còn nếu góp ý thì lại phải đi vào cái lộ trình : Sai đâu sửa đó bằng kinh nghiệm của các trẻ khác ! và chắc chắn là không thể có hiệu quả bởi vì phụ huynh cần phải biết là: Trẻ không thể tiến bộ hay thay đổi bằng cách dùng các biện pháp để “uốn nắn hành vi” hay “dập tắt” các thái độ tiêu cực.
    Các hành vi mà trẻ bộc lộ ra bên ngoài – từ chuyện ngó nghiêng, nắm chặt tay, la hét hay không chịu đi ngủ đúng giờ, nghịch phá quá trời hoặc không nói được từ nào…. Chỉ là sự bộc lộ một phần rất nhỏ trong muôn ngàn những khó khăn về môi trường xung quanh đã tác động lên trẻ từ ngày này sang ngày khác, ngay từ khi mới sinh ra …có khi vài ba tháng, có khi một hai năm … và dĩ nhiên, không có một biện pháp nào có thể giải quyết được các hành vi ấy và hơn thế nữa, cũng không thể chỉ cần giải quyết các hành vi ấy, “trị liệu” các khó khăn ấy mà trẻ có thể “ trở lại bình thường” hay “ ngoan ngoãn” hơn.
    Phụ huynh cũng luôn băn khoăn là không biết nên đưa con đi can thiệp như thế nào, 1 h mỗi ngày hay theo học bán trú ( sẽ được can thiệp 4 h một ngày chăng ? ) và đi học chuyên biệt gặp phải các trẻ có nhiều hành vi tiêu cực hơn, liệu trẻ có bắt chước mà “hư hơn” không ? Rồi đâu là một trung tâm có uy tín, có thể giúp cho con họ một cách hiệu quả nhất ? rồi nên can thiệp với 1 GV hay 2 GV và phương pháp nào là tốt nhất để điều trị cho con ? Đều là những lo lắng chính đáng. Nhưng có lẽ, PH vẫn còn nghĩ rằng, với những giờ can thiệp từ bên ngoài, đến từ các giáo viên bằng các kỹ thuật khác nhau ( có khi nhiệt tình, có khi hời hợt ) trong một thời gian ngắn, từ 3 – 6 tháng … ( nếu không thì sẽ đổi trường, đổi GV khác ) lại có thể đem lại kết quả cho một tình trạng đã ở tận bên trong đứa trẻ ngay từ khi mới sinh ra, mà những bộc lộ ra bên ngoài dù nhiều hay ít, cũng chỉ nói lên được phần nào những khó khăn về nhiều mặt trong tiến trình phát triển của chính bản thân đứa trẻ.
    Nói cách khác phụ huynh chỉ chú ý đến các biểu hiện của các rối loạn phát triển, và cũng chỉ quan tâm đến các kỹ thuật để điều chỉnh các rối loạn ấy. Trẻ chưa biết nói thì tập nói, trẻ có nhiều hành vi thì ngăn cản, cấm đoán, trừng phạt một cách nghiêm khắc để trẻ sợ mà không làm điều đó nữa ! Liệu rằng khi trẻ đã nói được, kể cả việc nói được cả một câu dài, liệu rằng khi trẻ không dám thể hiện ra một hành vi tiêu cực nào nữa, nói đứng là đứng, nói chào là chào, hỏi đâu nói đó, sai gì làm nấy ..sau một thời gian rèn luyện theo kiểu phản xạ có điều kiện… thì trẻ đã được gọi là bình thường hay chưa ? đã đủ để tốt nghiệp trường “chuyên biệt” mà đi học “hòa nhập” ở các trường bình thường chưa ? Câu trả lời thì hầu hết ai cũng biết, nhưng cũng hầu hết là không ai chấp nhận điều đó !
    Cho đến nay – với bao nhiêu nỗ lực nghiên cứu, tìm kiếm về nguyên nhân và liệu pháp can thiệp của các nền khoa học tiên tiến trên thế giới , vẫn chưa có một câu trả lời thỏa đáng. Nhưng theo tuyên bố của thứ trưởng bộ Y Tế, thì xem như tự kỷ là rối loạn do gen và như thế thì có thể có thuốc điều trị ! vì vậy nên gọi đó là bệnh chứ không phải là một tình trạng. Đến ngay một nhà chuyên môn cấp cao mà còn nghĩ như thế, thì trách sao các phụ huynh không ngày đêm mong chờ một liệu pháp thần kỳ để “điều trị hiệu quả” cái “bệnh Tự kỷ “ cho con mình để rồi cứ rót tiền vào các phương pháp và trung tâm “nói như đúng rồi” !
    Nói như thế, không phải là không cần giải quyết các hành vi, không cần quan tâm đến các triệu chứng, nhưng không thể mong muốn một “phép mầu” qua các kỹ thuật để cất đi ngay và luôn cái gánh nặng nghìn cân mà mỗi ông bố, bà mẹ đang ngày đêm nghiến răng gánh vác. Chúng ta cần nghĩ đến một giải pháp nhiều mặt, với nhiều cách tiếp cận khác nhau trong một thời gian dài một cách kiên trì , mà mục tiêu đầu tiên là hãy làm cho trẻ trở nên thoải mái và biết tiếp nhận!
    Hãy nghĩ xem, chính chúng ta khi mệt mỏi, khó chịu, nóng giận, lo sợ, thì có bộc lộ ra những hành vi tiêu cực hay không ? Chính những cảm xúc tiêu cực làm bộc lộ các hành vi tiêu cực, và đến phiên các hành vi tiêu cực đó quay lại để “củng cố, nuôi dưỡng” các cảm xúc tiêu cực ! Với người lớn, có lý trí, có nhận thức về giá trị đạo đức, mà lắm khi còn hành động như một người điên, không kiểm soát được. Huống chi đây là một đứa trẻ, chỉ biết phản ứng theo bản năng và sự cảm nhận trực giác chứ không phải là tư duy logic, sao lại cứ phải chăm chăm buộc cho trẻ phải nói và nghĩ như mình, để tìm mọi cách làm cho trẻ phải biết “đè nén” các cảm xúc đó, để được xem là “ngoan, là biết vâng lời ? “ Hãy tạo cho trẻ một môi trường tự nhiên tại gia đình một cách vui vẻ, thoải mái,có sự cảm thông và tôn trọng, điều đó có khó hơn là dùng sự quát mắng, hay dỗ dành chiều chuộng mang tính đối phó?
    Điều gì cũng phải học – chỉ để biết một số kiến thức về toán, về văn, về ngoại ngữ … mà phải học phờ người từ năm này qua năm khác, để biết một ngành nghề thì không chỉ là học mà còn phải trải nghiệm và tiếp nhận bao nhiêu là kinh nghiệm đôi khi rất chua xót mà chính mình phải trải qua và trả giá !
    Thế thì tại sao trong ngôi trường đại học “ Học làm cha mẹ” để có thể giáo dục chính đứa con yêu thương của mình có khả năng phát triển toàn diện, chúng ta lại cứ thích học lóm các chiêu mì ăn liền, cứ thích đi tắt, đón đầu, học qua các kinh nghiệm của người khác mà chưa chắc là đã áp dụng được ! Sao không nghĩ đến những biện pháp phù hợp với môi trường gia đình của mình mà tiến hành một cách bài bản và kiên trì ? Tại sao khi đứng trước một nhân cách toàn vẹn là đứa trẻ, chúng ta chỉ nhìn thấy các mặt hạn chế và chỉ nghĩ đến việc sửa lỗi, mà không có sự cảm thông để tạo cho đứa trẻ có được nụ cười? Ở đây, hãy phân biệt một cách rõ ràng sự nghiêm khắc trong hành động chứ không phải là quát mắng và áp đặt. sự chiều chuộng, dụ dỗ mua chuộc với sự chấp nhận, cảm thông và nâng đỡ.
    Các phụ huynh sẽ hỏi : Vậy thì tôi sẽ bắt đầu từ đâu ? hãy bắt đầu từ chính thái độ và nhận thức của bản thân, đừng đi hỏi thăm người khác cách “đối phó” với con mình, mà hãy ngồi xuống, chơi với con bằng nụ cười một cách vui vẻ ! Sao tôi nói nó không nghe nên phải quát lên mới chịu ? Trẻ không thèm chơi với tôi làm sao tôi dạy nó ? Nó cần phải ngồi vào bàn học nghiêm túc, chứ những trò chơi lưng tưng thì có ích gì ? Vâng, nếu nghĩ theo tư duy của người lớn thì như thế, nhưng phải biết suy nghĩ như trẻ con thì mới có thể chơi một cách hiệu quả với trẻ em. Để từ các trò chơi lưng tưng ấy, đứa trẻ sẽ được thoải mái, biết hợp tác và sẽ có những thay đổi từ bên trong. Chơi với trẻ là một nghệ thuật và đó là một nghệ thuật trị liệu cần phải hiểu rõ về các nguyên lý chứ chẳng phải ..chơi đâu !
    CVTL. Lê Khanh – TT Kidstime Bình Thạnh

     

  • Tự kỷ – Tôi chưa hiểu – Còn bạn ?

    Tự kỷ – Tôi chưa hiểu – Còn bạn ?

    Từ 2007 theo nghị quyết của Đại Hội đồng LHQ đã công bố ngày  2/4 là ngày Thế Giới Nhận Biết chứng tự kỷ và áp dụng từ 2008, đã làm dấy lên rất nhiều hoạt động của các cá nhân, cơ sở giáo dục, Tâm lý, Y khoa  cùng các đơn vị phong trào … với mục đích giúp cho người dân hiểu biết nhiều hơn về biểu hiệu, triệu chứng của một tình trạng rối loạn phát triển mà có thể nói là phức tạp hàng đầu thế giới. Thông điệp được gửi đến mọi người nhằm nâng cao nhận thức về chứng tự kỷ với các ý chính như sau :

    • Tự kỷ là khuyết tật liên quan đến não bộ. Cách nuôi dạy của gia đình không gây ra tự kỷ.
    • Tự kỷ có thể đến với bất cứ gia đình nào, không phân biệt giàu nghèo, học vấn.
    • Phát hiện sớm, can thiệp sớm hiệu quả càng cao
    • Người tự kỷ nếu được hỗ trợ đúng cách, có thể đi học, đi làm, cống hiến cho xã hội.

    Ngoài ra còn có các thông tin khác như : Chứng tự kỷ chưa rõ nguyên nhân, chưa tìm ra cách chữa khỏi hoàn toàn, nhưng nếu phát hiện sớm, can thiệp sớm đúng cách người tự kỷ có cơ hội tiến bộ rất cao. Họ có thể hòa nhập xã hội và đi học, đi làm có khả năng sống độc lập không trở thành gánh nặng xã hội. Các chuyên gia cũng cho rằng, mặc dù tự kỷ không chữa khỏi được, nhưng nếu can thiệp sớm thì trẻ sẽ dễ hòa nhập hơn với cộng đồng.

    Điều mà các thông điệp truyền đạt ở đây là gì : Can thiệp sớm đúng cách thì người tự kỷ có thể hòa nhập xã hội với các hoạt động bình thường như đi làm, đi học…và có khả năng sống độc lập, không cần sự trợ giúp của xã hội – Điều này có đúng không ? Các gia đình có trẻ tự kỷ vị thành niên hay đã trưởng thành có thấy rằng, sau rất nhiều nỗ lực can thiệp, con họ đã đủ khả năng sống độc lập chưa ? Hay vẫn phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ của gia đình ?

    Bây giờ, hãy thử xem các thông tin từ những nhà chuyên môn, liệu đã có được sự nhận thức đúng đắn về chứng tự kỷ hay chưa ?

    Đây là thông tin từ một cơ sở chuyên môn can thiệp về trẻ tự kỷ đã đưa ra loại tự kỷ gọi là tự kỷ chậm nói và giải thích như sau : Trẻ tự kỷ chậm nói là trẻ nói chậm hơn so với mốc thông thường ( chậm nói là..nói chậm – hay thật, trong khi chậm nói và nói chậm là hoàn toàn khác nhau về ý nghĩa ), ngoài ra trẻ có những ngôn ngữ rất đặc biệt. Ví dụ trẻ nói những âm thanh không có nghĩa, trẻ nói liên tục nhưng không thành lời, trẻ hay nhại lại lời nói. Nhiều khi trẻ chỉ nói những điều mà trẻ quan tâm và không chú ý đến những điều mà người khác nói. Trẻ Tự kỷ có phải là trẻ phát triển ngôn ngữ chậm hơn trẻ bình thường hay đó là sự khác biệt? tại sao trẻ lại nhại lời ? hay nói những âm thanh không có nghĩa ? – Là một cơ sở chuyên môn thì phải giải thích được các hiện tượng đó  chứ không chỉ là mô tả các biểu hiện mà người bình thường cũng có thể nhận biết !

    Hay một tiến sĩ – bác sĩ đã viết : “ Thời điểm kết thúc can thiệp là khi khả năng ngôn ngữ, giao tiếp, hành vi và kỹ năng xã hội của trẻ đạt được các mốc phát triển của trẻ bình thường cùng tuổi. Tùy theo trẻ, nhưng có thể là sáu tháng, một năm hoặc hai năm. Đối với trẻ tự kỷ nặng có thể là lâu dài.” … Có thế đây là một mong ước, nhưng nó lại không đúng với chứng Tự kỷ ! Bởi vì Tự Kỷ là một rối loạn phát triển về thần kinh và tâm lý kéo dài suốt đời, mà điều hạn chế lớn nhất của trẻ tự kỷ chính là kỹ năng giao tiếp xã hội, có thể nói là chưa có một trẻ tự kỷ nào (Nếu đúng là Tự Kỷ) lại có thể đạt được cái mốc phát triển bằng với các trẻ khác cùng độ tuổi ( ngay cả sau khi can thiệp tốt, thì kỹ năng giao tiếp xã hội của trẻ Tự Kỷ vẫn chậm hơn các trẻ cùng tuổi rất nhiều ). Nếu đúng những gì bà viết, thì đó là một chương trình can thiệp hoàn hảo về ngôn ngữ, giao tiếp, hành vi và kỹ năng xã hội để trẻ tự kỷ trở nên bình thường ! đâu ra chương trình đó ?

    Như vậy, ngay chính các cơ sở giáo dục trẻ hay  nhà chuyên môn đã HIỄU ĐÚNG về Tự kỷ chưa? – có thể họ biết rõ các Biểu hiện, biết các mặt mạnh và yếu của tự kỷ, biết được sự đau khổ của các gia đình nhưng họ vẫn chưa thực sự hiểu về BẢN CHẤT của tự kỷ, để xác định tự kỷ không phải là một căn bệnh có thể chữa trị ( bằng nhiều liệu pháp khác nhau ) hay tự kỷ là một tình trạng bất thường và có thể dùng nhiều biện pháp can thiệp, điều chỉnh để trẻ trở lại bình thường. Trong khi thực sự là tất cả các biện pháp và kỹ thuật can thiệp hiện nay chỉ là làm cho trẻ nói được, học được, hoạt động cá nhân được, thậm chí là biết làm một số việc, hay có những kỹ năng sáng kiến, năng lực tốt hơn… nhưng khả năng giao tiếp sinh động như một trẻ bình thường thì không thể ! Và điều gọi là hòa nhập với cộng đồng sẽ là một mục tiêu bất khả thi nếu không có sự HIỂU ĐÚNG về TỰ KỶ.

    Cái suy nghĩ phải làm sao cho trẻ tự kỷ trở lại tình trạng bình thường – để hòa nhập với xã hội như một trẻ bình thường – có thể là điều mong ước xuyên suốt của mọi người – từ các bố mẹ của trẻ, cho đến các giáo viên dạy trẻ, các chuyên viên can thiệp cho trẻ. Nếu có ai nói rằng, Tự kỷ là một ‘KHUYẾT TẬT SUỐT ĐỜI” để bố mẹ và xã hội cần phải CHẤP NHẬN KHUYẾT TẬT ĐÓ NHƯ MỘT ĐIỀU BÌNH THƯỜNG , thì hẳn là sẽ bị phụ huynh phản ứng và tẩy chay, các nhà chuyên môn cũng phản đối mạnh mẽ, dù ai cũng biết tự kỷ là một tình trạng không thể chữa được hoàn toàn – Cho dù có can thiệp sớm hay ..muộn !

    Vậy thì chúng ta đã hiểu một cách đúng đắn về tự kỷ chưa ? Vậy chúng ta sẽ truyền thông về tự kỷ như thế nào ? Đây là điều mà chúng ta gọi là sai lầm “ Quan niệm tự kỷ là tiêu cực, rồi xa lánh, thậm chí sợ sệt, cho là bệnh lây nhiễm, nếu cho con chơi cùng thì bị ảnh hưởng. Vì thế cơ hội để trẻ tự kỷ hòa nhập với bạn bè càng bị hạn hẹp. Một sự hiểu sai nữa là “đổ lỗi” cho bố mẹ, người chăm sóc bỏ bê việc nuôi dạy con, cho con xem ti vi, sử dụng máy tính bảng, không cho hoạt động ngoài trời với bạn bè cùng trang lứa… khiến trẻ mắc tự kỷ. Quan điểm, người tự kỷ không có ích cho xã hội, không thể dạy được, không thể làm được như người bình thường là một hiểu sai khá phổ biến trong cộng đồng hiện nay.

    Rõ ràng là chúng ta không thể xa lánh trẻ tự kỷ như trước đây ta xa lánh trẻ em bị chứng phung (phong cùi ) hay bị nhiễm HIV. Vì tự kỷ không lây nhiễm – nhưng chúng ta lại mong muốn trẻ Tự kỷ phải được can thiệp sớm để trở lại bình thường, có thể đi học hòa nhập như một trẻ bình thường, thì đó có phải là một quan niệm đúng đắn ?

    Điều mà chúng ta – Bạn và Tôi cần phải hiểu, Tự kỷ là những rối loạn về tâm lý – thần kinh nên đã tạo ra cho trẻ có sự khác biệt trong cách tương tác, giao tiếp, nhận thức mà chúng ta cần phải chấp nhận và hơn thế nữa là cần phải tôn trọng để người tự kỷ có thể hòa nhập trong xã hội với chính sự khác biệt đó ! Họ không thể trở thành người bình thường sau một giai đoạn là người tự kỷ. Họ là những đứa trẻ tự kỷ nếu được can thiệp tốt thì có thể  học tập và làm việc trong xã hội như một người Tự kỷ chứ không phải như một người bình thường.

    Theo Đại diện Mạng lưới tự kỷ Việt Nam, bà Nguyễn Tuyết Hạnh chia sẻ: “Hiểu về tự kỷ không chỉ giúp chúng ta cảm thông chia sẻ, mà còn chủ động phát hiện sớm, can thiệp sớm tự kỷ trong cộng đồng, giúp người tự kỷ tiến bộ, hoà nhập, có thể học hành và có việc làm, cống hiến năng lực cá nhân, giảm gánh nặng an sinh xã hội”.

    Như vậy, cái điều HIỂU ở đây, theo quan điểm của mạng lưới Tự kỷ Việt nam –chưa phải là điều mà người tự kỷ cần, mà đó chỉ là điều chúng ta muốn. Cái quan điểm cho rằng điều trẻ tự kỷ thiếu là kỹ năng ( Kỹ năng học tập – Kỹ năng giao tiếp – ngôn ngữ … ) Chỉ cần dạy, can thiệp hay trị liệu cho trẻ học được, biết nói, hỏi, trả lời ( gọi đó là giao tiếp ) là trẻ sẽ “ vượt qua chứng tự kỷ” trở thành bình thường ! Đó là điều hiểu biết nguy hiểm nhất ! Bởi vì nó tạo ra những ảo tưởng về các phương pháp can thiệp có khả năng chữa khỏi Tự kỷ  – Hãy thử nói chuyện với một cậu bé 8 tuổi bình thường và một trẻ tự kỷ 12 tuổi đã can thiệp một cách hiệu quả nhất – chúng ta có thể thấy sự tương đồng về nhận thức nhưng lại rất khác biệt trong cách giao tiếp, ứng biến và thích nghi ! Đó mới là điều chúng ta cần HIỂU để BIẾT chấp nhận sự khác biệt đó.

    Tất cả các phương pháp can thiệp có chứng cớ khoa học đều có những cái tốt, cái đúng và cả những cái hạn chế, đều cần thiết cho trẻ tự kỷ. Nhưng cái quan điểm Phải phát hiện sớm để can thiệp sớm là chưa chính xác. Chúng ta phải có sự phát hiện đúng ( về tình trạng và mức độ nặng nhẹ ) và can thiệp đúng ( Đúng với nhu cầu ngay vào thời điểm phát triển của trẻ và đúng với nguyên tắc của phương pháp can thiệp ) chứ không có gì là sớm hay muộn ở đây.

    Thấu hiểu Tự kỷ không phải là nỗ lực lôi đứa trẻ Tự Kỷ BƯỚC RA  khỏi cái thế giới của chúng  Mà là vui vẻ  BƯỚC VÀO cái thế giới của các VIP, để giúp cho trẻ phát triển được năng lực tiềm ẩn bên đưới cái vỏ ngơ ngác, ngập ngừng và tưởng chừng như rất vô cảm của trẻ, trong khi thực sự trẻ Tự kỷ lại là những con người trong sáng, đầy sự yêu thương với những cảm xúc tràn đầy mà chính thế giới chúng ta đang thiếu thốn. BIẾT YÊU THƯƠNG và CHẤP NHẬN VÔ ĐIÊU KIỆN các tình trạng của trẻ và hãy giúp cho trẻ có thể phát triển được các NIỀM VUI trong khả năng tốt nhất của nó, đó mới là sự thấu hiểu đúng đắn nhất về các Thiên thần này.

    Viết ngày 02/4/2019 – Ngày Nhận Thức Tự kỷ.

    CVTL. LÊ KHANH

    TT Giáo Dục Kidstime Bình Thạnh .

     

     

     

     

    .

  • Trẻ cần biết Chơi trước khi ..biết Nói

    Trẻ cần biết Chơi trước khi ..biết Nói

    Thông thường, các trẻ đặc biệt mà ta hay gọi là trẻ VIP, thường có những khó khăn về ngôn ngữ, hay đúng hơn là hạn chế về lời nói, vì các em vẫn có thể giao tiếp bằng cử chỉ . Điều này là  tâm điểm cho nỗi lo của bố mẹ, và 10 người thì hết 11 người khi đưa con đi khám, tìm trường, tìm lớp, tìm GV là đều đặt ra mục đích, yêu cầu : Làm sao con tôi nói được.

    Chính vì quá chú ý đến lời nói, nên chúng ta lại quá tập trung vào các kỹ thuật “ bật âm” để làm sao cho trẻ mau biết nói, và kết quả thường là trẻ chỉ có thể lập lại, nhại lời hay cùng lắm là hỏi gì đáp nấy bằng những từ đơn hay đôi cụt lủn.

    Hãy thử nghe một mẩu đối thoại :

    • Con nhìn đây, cái gì đây ? …cái nhà ! Yeah, giỏi lắm, con gì đây ? Con vịt… Yeah giỏi lắm …..Con muốn ăn gì ? …con muốn ăn gì ? … Không, cô hỏi : Con muốn ăn gì ? con con phải nói Con ăn bánh . lập lại ..con muốn ăn gì – con ăn bánh … Không, con chỉ trả lời, không nhắc lại câu hoi của cô , lập lại …. Nghe có quen không ?

    Thực ra, trước khi tập nói, các em cần được phát triển những kỹ năng không lời hay còn gọi là kỹ năng “tiền lời nói”. Những kỹ năng không lời này bao gồm :

    • Biết sử dụng đồ vật,  Hình thành khả năng bắt chước, Kỹ năng nhìn vào đồ vật người khác chỉ, sau đó chỉ vào đồ vật để làm người khác chú ý.
    •  Quan trọng nhất là kỹ năng luân phiên ( chơi và hoạt động lần lượt với mẹ, giáo viên và sau đó là trẻ khác.)

    Chúng ta biết rằng, để khám phá môi trường, trẻ cần phải biết cách sử dụng đồ vật. điều đầu tiên là trẻ cần  biết đồ vật vẫn tồn tại tuy không còn nhìn thấy nữa. ( chính vì không biết điều này nên nhiều trẻ VIP không thích thay đổi vị trí các đồ dùng, còn đồ chơi thì xếp theo đúng 1 trình tự, hay 1 hàng thẳng và tỏ ra hoảng sợ khi thấy mọi thứ biến mất trong bóng tối ! ) Để xác định trẻ có kỹ năng này hay không, cha mẹ/GV có thể đặt đồ chơi trước mặt trẻ và khi trẻ tỏ ra chú ý đến đồ chơi đó, ta trải miếng vải phủ lên trên đồ chơi và đợi phản ứng của trẻ.

    Nếu trẻ ý thức rằng đồ chơi vẫn còn ở đó thì sẽ có phản ứng như lấy ra miếng vải để tìm lại đồ chơi phía bên dưới. Nhưng nếu trẻ không nhận ra điều đó, sẽ quay đi tìm món đồ chơi khác. Trong trường hợp trẻ đã trên 3 tuổi mà vẫn còn không biết cách chơi với đồ vật và thường cho vào miệng cắn, cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển bước kế tiếp, đó là chơi với đồ vật theo hình dáng/chức năng hoặc làm mẫu cách chơi với đồ chơi một cách thích hợp :

    Ví dụ :  như đẩy cho xe chạy, chải tóc cho búp bê, ném banh). Bước này quan trọng để giúp trẻ bắt đầu khám phá đồ vật một cách thích hợp hơn.

    Sau khi trẻ biết chơi với từng món đồ chơi một, trẻ cần chơi với hai đồ vật cùng một lúc như quậy muỗng trong ly, cho búp bê bú bình sữa v.v… Kế tiếp, trẻ sẽ được tập chơi theo trình tự, nghĩa là chơi theo thứ tự như cho búp bê bú, lau miệng cho búp bê, đặt búp bê lên giường ngủ…Tất cả hoạt động này, trẻ sẽ học bằng cách bắt chước người chơi với mình. Chúng ta nên biết rằng, mỗi một hoạt động sẽ phải trải qua 3 giai đoạn :

    • Giai đoạn người dạy làm mẫu và khuyến khích trẻ nhìn và làm theo.
    • Giai đoạn trẻ và người dạy cùng làm ( đây là giai đoạn dài nhất )
    • Giai đoạn trẻ có thể tự làm, người dạy khuyến khích.

    Đối với trẻ chưa biết bắt chước, Người dạy : ND( Giáo viên/ cha mẹ )  có thể tập khả năng bắt chước qua những hành động tay chân trước, như nhảy lên nhảy xuống hoặc vỗ tay; khi trẻ thích bắt chước hành động, ND có thể giúp trẻ bắt chước lè lưỡi ra, đưa đầu lưỡi lên, cười, phồng hai má ra, v.v… Đây là một cách tập phối hợp bắp cơ miệng để sau này tập nói. Đồng thời có thể khuyến khích trẻ tập bắt chước tiếng nói đơn giản như là “a a, ba ba”.

    Một cách khác giúp trẻ bắt chước là ND  bắt chước các hành động của trẻ trước. Nếu trẻ nói a a, thì ND nói theo a a. Nếu trẻ lên xuống giọng nói, cha mẹ lặp lại y chang như vậy. Có thể soi gương cùng với trẻ để giúp trẻ chú ý và thích thú bắt chước.  Sau khi đã bắt chước trẻ và tạo sự chú ý cho bé, ta có thể chủ động lặp lại những hành động đó để trẻ làm theo.

    Chỉ đến khi trẻ đã làm theo một cách vui vẻ, chúng ta mới bắt đầu đưa vào những hoạt động can thiệp tiếp theo mà chúng ta muốn trẻ làm một cách đơn giản và phải nhắc lại nhiều lần để trở thành một thói quen.

    Như vậy thông qua món đồ chơi làm vật trung gian, chúng ta giúp cho trẻ tạo mối quan hệ tương tác giữa con và bố mẹ. Đó gọi là “tam giác giao tiếp” cần thiết cho chương trình can thiệp sớm cho trẻ.     TRẺ  – ĐỒ CHƠI – NGƯỜI DẠY.

    Để tập nhận biết, lưu hình ảnh của vật vào trí nhớ, dùng làm vốn từ để cho giai đoạn nói ra sau này , Trẻ cần tập kỷ năng nhìn vào đồ vật mà người dạy chỉ vào và biết chỉ tay vào đồ vật để phát triển ngôn ngữ. Thông thường, khi trẻ có nhu cầu muốn lấy một vật gì, thường là nắm lấy cánh tay của bố mẹ, kéo đến gần vật muốn lấy và bố mẹ phải đoán được nhu cầu của trẻ.

    Vì vậy, khi trẻ tỏ ra có nhu cầu và phụ huynh hay giáo viên “đoán được” thì thay vì đợi trẻ kéo tay đến gần vật muốn lấy, ta sẽ dùng tay để chỉ vào vật đó và hỏi trẻ bằng một từ ngắn gọn: Bánh? Sữa? ly? chén? ( nói ra tên vật mà trẻ chỉ vào) Khi trẻ chấp nhận và nhìn vào vật muốn lấy, ta sẽ lấy cho bé và nhắc lại : con uống sữa, sữa nè… để trẻ dần dần nhớ được từ mà mình muốn dạy cho trẻ nhớ.

    Trong trường hợp trẻ nắm tay ND để kéo đến vật muốn lấy ( mà trẻ không tự lấy được) thì ND sẽ khéo léo chuyển cánh tay để dùng bàn tay nắm lấy cánh tay của trẻ và kéo tay trẻ chỉ vào vật mà trẻ muốn lấy, đồng thời nói to tên của vật đó ( lập lại nhiều lần ) để sau vài lần chỉ như vậy thì trẻ sẽ nhận ra tên của vật đó. Khi đã biết tên, và biết chỉ tay thì lúc đó mới yêu cầu trẻ nói lên tên của vật ( sua khi đã nghe ND nói nhiều lần )

    Như vậy kỹ năng nhìn vào đồ vật mà người khác đang chỉ và chỉ vào đồ vật để làm người khác chú ý. Sẽ là cơ sở để trẻ hình thành nhu cầu giao tiếp và sau đó là kỹ năng ngôn ngữ.

    Những trẻ hiểu được ý nghĩ của người khác sẽ giao tiếp dễ dàng hơn. Nói một cách khác, nên tạo ra “tam giác giao tiếp” một đầu là người nói, đầu thứ hai là trẻ và đầu thứ ba là đồ vật. Những “tam giác giao tiếp” thông qua các trò chơi tương tác  là cách tốt nhất cho trẻ học ngôn ngữ. Khi giao tiếp với trẻ, nên tạo ra nhiều cơ hội có “tam giác giao tiếp,” nghĩa là cha mẹ và con tập trung vào một việc. Những lúc tập trung với nhau như vậy không cần lâu, đôi lúc chỉ là 1-2 phút nhưng càng nhiều lần như vậy, trẻ càng tiếp thu nhiều hơn.

    CV.TL LÊ KHANH

    Phòng Tư vấn Tâm lý Gia Đình & Trẻ em

  • RỐI LOẠN CẢM GIÁC – NGUỒN GỐC DẤU MẶT

    RỐI LOẠN CẢM GIÁC – NGUỒN GỐC DẤU MẶT

    Thế nào là sự quân bình cảm giác

    Sau khi sinh ra, hệ thống thần kinh của trẻ bắt đầu tiếp xúc với môi trường bên ngoài qua 5 giác quan : Nhìn – nghe – sờ chạm – nếm – ngửi và 2 năng lực : Khả năng thăng bằng và sự cảm nhận về bản thân. Chúng ta thấy rằng trẻ tiếp xúc với thế giới qua các giác quan, trẻ học tập qua giác quan và phát triển vận động để tự lập và khởi đầu trong mối quan hệ. Giai đoạn cảm giác vận động là giai đoạn khởi đầu của quá trình phát triển nhận thức (Piaget).

    Với một trẻ bình thường, thì sự phát triển giác quan sẽ giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp bằng cái nhìn, phân biệt được khuôn mặt của người mẹ và những người khác . Trẻ cũng nhận ra những âm thanh quen thuộc từ lời ru của mẹ, tỏ ra khó chịu với những âm thanh ồn ào và thư giãn với tiếng nhạc. Đặc biệt là xúc giác và vị giác giúp cho trẻ cảm thấy yên ổn, dễ chịu với sự ôm ấp vuốt ve của người mẹ. Thích thú hưởng thụ vị ngọt của sữa và phản ứng với các vị khác. Tất cả những phát triển đó giúp cho trẻ có được sự quân bình về giác quan và phát triển một cách hài hòa.

    Thế nhưng, với trẻ có tình trạng tự kỷ thì không như vậy. Sự cảm nhận hay tiếp thu các cảm giác của các em không quân bình. Có trẻ thì quá nhạy cảm, có trẻ thì quá thờ ơ với những tác động của ánh sáng, âm thanh, sự sờ chạm và các hương vị của thức ăn, đồ uống.

    Khi trẻ không có được sự quân bình về giác quan , ta gọi đó là tình trạng rối loạn chức năng hòa nhập cảm giác , hay tình trạng rối loạn quân bình cảm giác ( Sensory Processing Disoder ) hoặc ngắn gọn là rối loạn cảm giác.  Sự mất quân bình về cảm giác sẽ tạo ra những phản ứng và hành vi không bình thường. Điều này sẽ khó hiểu nếu không có sự quan tâm đến khả năng tiếp nhận cảm giác của trẻ.

    Rối loạn cảm giác có thể hiện diện trong nhiều lãnh vực phát triển khác nhau của trẻ như nhận thức, vận động, xã hội/cảm xúc, âm ngữ/ngôn ngữ hay chú ý. Khi có khó khăn về cảm giác, trẻ không thể phản ứng một cách phù hợp với những cảm giác đã tiếp nhận cũng như sẽ có những khó khăn không thích nghi với môi trường bên ngoài.

    Chính những rối loạn về giác quan  ( Nhìn /nghe / sờ chạm /sự quân bình và sự cảm thụ bản thân) đã góp phần quan trọng vào những khó khăn trong nhiều lĩnh vực khác nhau như:

    • Có những phản ứng quá mức hay dưới mức bình thường với các cảm giác thông qua các giác quan .
    • Có sự tăng động hoặc ngược lại, quá thụ động
    • Kém tập trung , có hành vi cẩu thả hay bốc đồng.
    • Vụng về và Kém khả năng thích nghi với môi trường
    • Chậm nói và chậm phát triển về vận động
    • Khó kiểm soát cảm xúc ( dễ cười/khóc hay cáu gắt ) và không có khả năng tự ổn định.

    Như vậy, rõ ràng tình trạng mất quân bình về khả năng tiếp nhận cảm giác, đặc biệt là ở trẻ tự kỷ (ASD) cũng như tăng động – kém chú ý ( ADHD) đã là tác nhân đưa đến các rối loạn mà chúng ta thường cho rằng, đó là do các nguyên nhân khác về thần kinh hay tính khí.

    Khi đứng trước một tác nhân hay một thông tin có liên quan đến giác quan – thì tiến trình nhận biết và phản ứng của trẻ sẽ như thế nào ? Giai đoạn đầu tiên của quá trình Xử lý cảm giác là Tiếp nhận, điều này diễn ra khi đứa trẻ có ý thức về cảm giác. Giai đoạn thứ hai là Chuyển hướng, khi đứa trẻ bắt đầu chú ý đến cảm giác. Giai đoạn tiếp đến là giai đoạn Diễn giải, khi đứa trẻ cảm nhận được điều gì đang xảy ra. Cuối cùng là giai đoạn Tổ chức, khi đứa trẻ sử dụng các thông tin để đưa ra một phản ứng. Phản ứng có thể là một hành vi biểu lộ cảm xúc, một hành động của cơ thể, hoặc một phản ứng về nhận thức.  Dĩ nhiên là hầu như các giai đoạn này sẽ diễn ra một cách tự động và nhanh chóng để đưa đến một phản ứng gần như là tức thời của đứa trẻ.

    Khi chúng ta bật đèn, trẻ sẽ nheo mắt, gõ chuông, trẻ sẽ quay đầu tìm, chạm vào trẻ, trẻ sẽ co lại… đó là những phản ứng bình thường. Thế nhưng, với trẻ đặc biệt thì không như vậy . Có thể trẻ sẽ khó chịu với một ánh sáng bình thường hoặc thờ ơ trước một ánh sáng mạnh – và sự mất quân bình về thị giác cũng khiến cho trẻ né tránh cái nhìn của người khác.

    Trẻ cũng có thể quá khó chịu hay sợ hãi với những âm thanh bình thường, đặ biệt là các tiếng động có phần bất ngờ và đều đều như tiếng nước chảy, tiếng máy khoan, tiếng máy nổ …ngược lại, có trẻ lại tỉnh bơ trước mọi tiếng động chung quanh.  Đặc biệt là với cảm giác da và khả năng thăng bằng trong vận động – trẻ thường có những biểu hiện rõ nét.

    Khi đầu vào cảm giác không quân bình hoặc không thể thiết lập một cách trật tự trong não bộ, trẻ sẽ cảm nhận thế giới xung quanh với sự khác biệt. Trẻ sẽ không cảm nhận được hình ảnh chính xác, tin cậy về cơ thể và môi trường, và sự rối loạn tri giác này gây ra các khó khăn trong phát triển với mức độ khác nhau, đưa đến việc xử lý thông tin và hành vi khác nhau. Vì trẻ không có khả năng xử lý thông tin nhận được thông qua các giác quan, nên trẻ khó khăn trong việc thích nghi với các tình huống. Sinh học thần kinh của các hệ thống giác quan bị rối loạn chức năng, do đó bóp méo khả năng cảm nhận thế giới một cách chính xác của trẻ.

    Như vậy, khi nhận thấy con em có những rối loạn về hành vi, những phản ứng không bình thường, chúng ta cần lưu ý là sẽ có rất nhiều khả năng trẻ bị tình trạng rối loạn cảm giác . Tuy nhiên, vấn đề về rối loạn cảm giác của trẻ không chỉ đơn giản là như thế, mà nó còn rắc rối hơn nhiêu ở một số trẻ .

    Theo tác giả Carol Kranowitz trong The Out – of – Sync Child (Đứa trẻ rối loạn) thì có nhữngTrẻ vừa có thể phản ứng thái quá vừa kém phản ứng trong cùng một hệ thống cảm giác, hoặc cũng có thể phản ứng thái quá với một loại cảm giác này và kém nhạy cảm đối với loại cảm giác khác, hoặc có thể phản ứng khác nhau đối với cùng một kích thích phụ thuộc vào thời gian và hoàn cảnh, thay đổi liên tục. Hôm qua, sau một thời gian nghỉ dài, cậu bé chịu đựng khá tốt tiếng chuông báo cháy; hôm nay, không có thời gian nghỉ, cậu bé lại trở nên khó kiểm soát với tiếng đóng cửa nhẹ. Hoàn cảnh tạo nên sự khác biệt lớn”. Chính những phản ứng trái ngược nhau ở cùng một đứa trẻ đã khiến cho việc điều chỉnh các rối loạn về cảm giác là không hề dễ dàng.

    Trẻ cần gì để có thể điều hòa cảm giác :

    Đầu tiên đó là sự thăng bằng. Đây là yếu tố cần thiết cho sự vận động hằng ngày. Sau đó là sự Cảm thụ bản thân, đó là sự nhận biết về các cơ bắp, các khớp, sự cảm nhận của bản thân trong không gian. Cảm giác này không liên quan đến 5 giác quan mà liên quan đến chính các bộ phận của cơ thể để có thể điều hợp sự vận động. Tiếp theo là sự hoạch định vận động là sự chuẩn bị các vận động của cơ thể, mà khởi đầu chính là những cảm nhận của xúc giác.

    Ngoài ra hệ thống tiền đình đem lại sự thăng bằng cho cơ thể và khả năng điều hợp vận động hai bên phải và trái cũng góp phần quan trọng vào khả năng điều hòa cảm giác hay đúng hơn là đem lại bình ổn cho cơ thể, từ đó đưa đến sự bình ổn trong tâm lý – hành vi – nhận thức.

    Các hình thức rối loạn cảm giác :

    Theo Ts Stanley I.Greenspan và Ts Lucy J.Miller thì tình trạng  rối loạn giác quan được chia làm ba nhóm triệu chứng chính.

    Loại I. Rối loạn điều chỉnh cảm giác (SMD)

    Tình trạng này khiến cho trẻ khó khăn trong việc đưa ra phản ứng phù hợp với mức độ của kích thích. Rối loạn này bao gồm tình trạng phản ứng quá mức khiến cho trẻ cảm thấy cần cảnh giác hơn người bình thường. “Ngay cả khi trẻ ngủ, “hệ thống” này vẫn làm việc tốt hệt như động cơ của ô tô được khởi động để chạy không tải. Điều này khiến trẻ cảm nhận âm thanh và các kích thích khác nhạy hơn nhiều so với trẻ bình thường. Thậm chí ngay cả những âm thanh vô hại như tiếng đóng cửa cũng có thể làm cho trẻ ngay lập tức và hoàn toàn trở nên cảnh giác hệt như bạn và tôi cảnh giác với tiếng nổ lò sưởi ở trong nhà vậy”

    Loại II. Rối loạn vận động có liên quan đến cảm giác (SBMD)

    Loại rối loạn này xuất hiện khi thông tin cảm giác đầu vào của hệ cảm thụ bản thân và hệ tiền đình bị sai lệch hoặc xử lý không chính xác. Hệ cảm thụ bản thân cho chúng ta biết rõ bộ phận cơ thể nào của chúng ta đang chuyển động như thế nào Hệ tiền đình cho chúng ta biết rằng cơ thể mình đang ở trạng thái nghiêng hay thăng bằng.

    Khi hệ thần kinh trung ương của trẻ có khó khăn trong việc sử dụng thông tin cảm giác từ những hệ trên, trẻ có thể mắc Rối loạn phối hợp động tác – một dạng của SBMD khiến trẻ trở nên khó khăn trong việc thực hiện chuỗi hành động cần thiết để thực hiện điều trẻ muốn, chẳng hạn như bắt chước, chơi thể thao, đạp xe, hoặc trèo thang. Trẻ em bị chứng SBMD thường lóng ngóng, hay vô tình làm rơi vỡ đồ chơi, hoặc dẫm lên đồ vật. Những trẻ này thường thích ngồi chơi các trò tưởng tượng hơn là thích vận động thể thao.

    Một dạng khác của rối loạn SBMD là rối loạn tư thế, khiến cho trẻ lúc nào cũng cảm thấy yếu ớt, dễ mệt mỏi và không định hình rõ tay thuận hay khó vận động qua đường giữa thân.

    Loại III. Rối loạn phân biệt cảm giác (SDD)  

    Rối loạn này khiến cho trẻ khó phân biệt được những cảm giác giống nhau. Khả năng Phân biệt cảm giác là quá trình mà theo đó chúng ta tiếp nhận thông tin từ các giác quan đưa tới và sẽ được hợp nhất, diễn giải, phân tích và kết hợp với toàn bộ dữ liệu chúng ta đã lưu trữ để sử dụng hiệu quả các thông tin tiếp nhận đó.

    Điều này cho phép chúng ta nhận biết tay đang cầm vật gì mà không cần nhìn, hay có thể dùng tay sờ để tìm vật, hoặc hình dung ra cách viết trên một trang giấy, hoặc cho phép chúng ta phân biệt được các chất liệu và mùi vị, và nghe được cuộc trò chuyện của những người mà ta quan tâm dù xung quanh ồn ào. Rối loạn này có thể khiến cho trẻ trở nên mất tập trung, thiếu khả năng tổ chức và kết quả học tập tại trường bị sút kém.

    Như thế các vấn đề về rối loạn cảm giác có thể được coi là một phổ rộng và khác biệt ở từng trẻ  giống như vân tay vậy. Điều này cũng tương tự như chính tình trạng tự kỷ hay tăng động kém chú ý ở mỗi trẻ. Đều mang tính cá biệt không trẻ nào giống trẻ nào..Vì vậy, rõ ràng là phải có một sự quan sát, tiếp cận và áp dụng các biện pháp can thiệp cá nhân cho từng trẻ. Điều này cho thấy những kinh nghiệm giáo dục từ trẻ này sang trẻ khác được trao đổi giữa các phụ huynh chỉ mang tính tham khảo, cũng như các “giáo án” chung cho các trẻ tự kỷ sẽ được xem là không phù hợp cho một chương trình can thiệp hiệu quả.

    CvTL Lê Khanh

    Tài liệu tham khảo :

    Kỹ thuật Hòa Nhập Cảm Giác  và Những trò chơi Can thiệp sớm ( TG : Barbara Sher )

     

  • CÁI TÊN KHÔNG QUAN TRỌNG

    CÁI TÊN KHÔNG QUAN TRỌNG

    Đến nay, sau gần 2 thập niên  ( 1990 – 2017 ) tình trạng rối loạn phát triển ở trẻ em vẫn còn những rối loạn trong việc gọi tên. Nhất là để xác định được đâu là những rối loạn đặc hiệu cho tình trạng này. Vẫn còn nhiều lẫn lộn giữa Tự kỷ với Tăng động giảm chú ý và chậm phát triển trí tuệ, dù 3 tình trạng này là khác nhau từ tên gọi đến triệu chứng..

    Tự kỷ, chỉ hai âm tiết thôi mà không biết từ bao giờ đã biến thành một ông kẹ, hù dọa không phải những trẻ sợ ma  sợ bóng tối, mà là các phụ huynh đủ mọi thành phần, lứa tuổi, trình độ … đặc biệt ở các cha mẹ, càng hiểu nhiều, càng đọc lắm thì lại càng …run Họ khủng hoảng, khiếp vía, lo lắng, bật khóc, suy sụp, chỉ muốn chết quách đi cho xong khi phải đối diện với cái nhãn VIP của một ngài bác sĩ, chuyên gia  nào đó dán lên đầu đứa con khỏe mạnh xinh tươi của mình.

    Bởi vậy, nhiều bác sĩ, chuyên gia, và cả các giáo viên, nhà giáo dục khi đánh giá, chẩn đoán, xem xét tình trạng của trẻ, đã ngại bố mẹ có thể lên cơn stress khi phải đối diện với sự thật, nên đã không gọi là tự kỷ, mà gọi là rối loạn phát triển lan tỏa, hay né tránh bằng cách gọi đó là trẻ tăng động – kém chú ý , trẻ chậm phát triển … vì họ cho rằng gọi như thế sẽ nhẹ nhàng hơn cho việc mô tả những hành vi kỳ lạ, sự chậm trễ về ngôn ngữ, những rối loạn trong giao tiếp … để bố mẹ có thể chấp nhận và bắt đầu một hành trình không có điểm..dừng !

    Cũng có người cho rằng gọi tên chính xác cái chứng của con mình là gì không quan trọng, quan trọng là sự yêu thương, chăm sóc con hết lòng…dù con có là gì đi nữa , cứ ráo riết can thiệp cho con bằng đủ mọi biện pháp là con sẽ có thể tiến bộ, có thể hòa nhập với xã hội … thậm chí là có thể ..bình thường trở lại !

    Đây là cách nghĩ tuy cần nhưng chưa đủ hay vô tình lại tạo ra những định hướng sai lệch trong tiến trình can thiệp rất dài của con.  Tình yêu thương con một cách tràn đầy sẽ là một động lực mạnh mẽ không gì sánh được trong hành trình cùng con. Nhưng nó cũng sẽ là lý do thúc đầy bô mẹ bước vào mê cung của những phương pháp can thiệp với những kết quả đầy thuyết phục dù chẳng hề dựa trên một chứng cớ khoa học nào . Nào là cạo gió để trục cái khí lạnh ra khỏi con, con sẽ hồi phục lại trí tuệ sau vài chục lần chịu đựng sự “tra tấn” cào nát cơ thể để đưa đến kết quả cụ thể là trục được một khoản tiền không nhỏ ra khỏi túi của bố mẹ.  Nào là chỉ dùng vài chục hộp Vương Não Khang thì sẽ giúp trẻ phát triển trí tuệ, ngôn ngữ mà không hề nghĩ đó chỉ là một loại thực phẩm chức năng vô thưởng vô phạt… Nguy hiểm hơn, giờ đây việc “chữa trị” cho trẻ Đặc biệt không chỉ ở các cá nhân như Bà Lang Nùng hay ông thần y nào đó.. mà là từ những cơ sở y tế chính thức như viện châm cứu, bệnh viên quốc tế, với tên tuổi của các Tiến sĩ, giáo sư đầy uy tín. Thậm chí với những con số cụ thể như hơn 1500 bệnh nhi mà khả năng phục hồi là 60% sau một số liệu trình châm cứu vài ba tháng hay vài ba năm…

    Đúng là những biện pháp phẩu thuật khoa học như cấy tế bào gốc, kỹ thuật châm cứu, cấy chỉ là có tác dụng trên một số chứng bệnh về thần kinh … Nhưng ở đây, các cơ sở này đã cố tình dùng các thuật ngữ khoa học để đánh đồng các chứng rối loạn phát triển với những tổn thương về thần kinh của trẻ, đưa đến các khó khăn về vận động, mà những phương pháp trên đã tỏ ra có hiệu quả. Họ suy diễn theo kiểu là cứ hễ cái gì liên quan đến thần kinh, đến rối loạn là đều có thể dùng chung một số liệu pháp như nhau…

    Đó cũng chính là việc xem các tình trạng rối loạn phát triển này đều có các biểu hiện tương tự nhau, nên cần gì phải phân biệt một cách rõ ràng. Cứ hễ chậm nói, kém giao tiếp xã hội, chậm nhận thức, hoạt động lăng xăng không ngừng nghỉ, chẳng thèm chú ý đến ai…thì gọi các VIP ấy là tự kỷ hay tăng động, giảm chú ý hay chậm phát triển cũng chẳng hề gì ! Miễn là cứ quan tâm, yêu thương con, cho con đi can thiệp sớm cho đến khi con nói được là xong, là có thể cho con đi học, và khi đã vào được trường là xong, con sẽ được hòa nhập !

    Trong sách DSM 5 (Diagnostic and Statistical Manual Disorders – Cẩm Nang Thống Kê & Chẩn Bệnh Tâm Thần ) xuất bản năm 2003 đã đưa ra các chẩn đoán tự kỷ như sau :

    Rối Loạn Phổ Tự Kỷ (Autism Spectrum Disorder) – có mã số 299.00 (F84.0) với các dấu hiệu đặc trưng trong 3 nhóm:

    – Nhóm A :Trẻ có 3 dấu hiệu khiếm khuyết về ngôn ngữ , cảm xúc và giao tiếp xã hội

    – Nhóm B: Trẻ có 3 dấu hiệu giới hạn, lặp lại, rập khuôn về hành vi, sở thích, và hoạt động. Ngoài ra trẻ còn có những rối loạn về giác quan .

    Những tiêu chuẩn trong nhóm B của DSM -5 được áp dụng để chẩn đoán và phân định sự khác biệt giữa Rối Loạn Phổ Tự Kỷ (ASD) và dạng Rối Loạn Ngôn Ngữ trong Giao Tiếp Xã Hội (Social ‘Pragmatic’ Communication Disorder SCD). Tiêu chuẩn hay tiêu chí số 4 trong nhóm B về rối loạn cảm giác chưa từng có trong ấn bản cũ (DSM-IV). Nếu trẻ hội đủ 3 tiêu chuẩn của nhóm A nhưng không có những giới hạn, lặp lại, rập khuôn về hành vi, sở thích, và hoạt động thuộc nhóm B thì không phải là tự kỷ, và nên xếp vào dạng SCD .

    Không những thế, khi chẩn đoán tự kỷ cần nêu rõ: – Trẻ ASD có kèm theo chứng chậm phát triển, Chậm nói hay không?  Trẻ có cần một sự chăm sóc y tế hay kèm theo một chứng rối loạn phát triển khác như chứng tăng động giảm chú ý ( ADHD), thậm chí là có kèm theo bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder) hay không?

    APA ( hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ )  cảnh báo: Những cá nhân đã có sự chẩn đoán bị rối loạn tự kỷ, rối loạn Asperger, hay rối loạn lan tỏa – không phân biệt rõ (PDD – NOS), dựa vào ấn bản cũ (DSM-IV), phải được xếp chung vào Rối Loạn Phổ Tự Kỷ (ASD) trong ấn bản mới (DSM 5). Riêng những cá nhân có những khiếm khuyết nghiêm trọng về ngôn ngữ, nhưng không hội đủ tiêu chuẩn tự kỷ trong DSM 5, sẽ được thẩm định lại để xếp vào dạng Rối Loạn Ngôn Ngữ trong Giao Tiếp Xã Hội (SCD).

    Như vậy, rõ ràng các chứng rối loạn phát triển hay rối loạn ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội và các chứng tâm thần trẻ em, đã được phân biệt rất rõ ràng – mặc dù chúng đều có những biểu hiện tương tự nhau.

    Cũng theo sách DSM 5 thì rối loạn tăng động giảm chú ý có 3 nhóm khác nhau là :

    Nhóm thiên về Giảm chú ý với 9 dấu hiệu sau :

    1/ Không chú ý đến các chi tiết .

    2/ Dễ nhàm chán các hoạt động phải lặp lại .

    3/ không quan tâm đến người đối diện trong giao tiếp ,

    4/ không hoàn tất các yêu cầu về công việc và học tập.

    5/ Gặp khó khăn khi phải tuân theo các yêu cầu của bố mẹ hay giáo viên.

    6/ Khó tổ chức một hoạt động theo một trình tự nhất định trong một thời gian cụ thể.

    7/ Không thích các công việc đòi hỏi sự tập trung.

    8/ thường để mất đồ đạc, học cụ.

    9/ dễ bị phân tâm bởi những kích động chung quanh

    Trẻ dưới 17 tuổi cần đạt 6 tiêu chuẩn trở lên mới hội đủ điều kiện thuộc dạng rối loạn tăng động giảm chú ý .

    Nhóm thiên về Tăng động với 9 dấu hiệu :

    1/ Thích cựa quậy, đánh nhịp, vặn vẹo chân tay .

    2/ Không thể ngồi yên một chỗ quá 5 phút

    3/ Thường không thể chơi một cách nhẹ nhàng, êm thắm .

    4/ Đứng ngồi không yên, đôi chân chỉ thích đi .

    5) Nói nhiều .

    6/  Trả lời trước khi người khác hỏi xong

    8/ Không kiên nhẫn chờ đợi

    9/  Ưa quấy rầy hoặc làm gián đoạn công việc của người khác .

    Nhóm Kết Hợp  bao gồm 9 tiêu chuẩn của dạng giảm chú ý (Inattention) và 9 tiêu chuẩn của dạng tăng động và bồng bột (Hyperactivity and Impulsivity).

    ( theo thông tin từ FB Danang Ho )

    Như thế, nếu xét về bản chất và dấu hiệu thì rõ ràng tự kỷ – tăng động kém chú ý hay chậm phát triển – kém giao tiếp xã hội …dù có chung cái mũ là rối loạn phát triển. Thì đều có những dấu hiệu khác nhau và dĩ nhiên là từ đó, phải có những biện pháp và mục tiêu can thiệp khác nhau.

    Không phải đơn giản mà ngay từ xa xưa, cha ông ta đã có câu : Tên gọi có đúng ( Danh chính ) thì lời nói mới phù hợp ( Ngôn thuận ) . Mà có sự phù hợp thuận lợi thì mới đạt kết quả. Đã biết bao nhiêu thứ trong thời đại này, do sự nhập nhằng, không chính danh, mà đã trở nên giả dối hay tạo ra những quan điểm sai lầm trong việc định hướng. Là Phụ huynh hay là nhà chuyên môn đều nên xem xét một cách rõ ràng về tình trạng của con em mình, để từ đó có thể định ra một lộ trình, một mục tiêu can thiệp một cách hợp lý và hiệu quả.

    CVTL Lê Khanh

    GĐ Chi Nhánh Cty GD KidsTime  – TP HCM

     

     

     

     

     

  • CAN THIỆP HAY CÙNG CHƠI ?

    CAN THIỆP HAY CÙNG CHƠI ?

    NHỮNG NGỘ NHẬN

    Rõ ràng là các trẻ tự kỷ đều có những khó khăn về giao tiếp, ứng xử và ngôn ngữ. Điều đó đã hạn chế rất nhiều việc đi học hay hòa nhập xã hội của các em. Thế nhưng, cũng có những người Tự kỷ lại có những khả năng xuất chúng.

    Stephen Wiltshire, 34 tuổi, rất nổi tiếng là chiếc camera sống.  Anh ta có thể vẽ lại những thiết kế kiến trúc và cảnh quan chi tiết tới từng ngọn cỏ — dù chỉ mới quan sát khu vực đó một lần. Wiltshire đã từng vẽ lại quan cảnh của Tokyo, Rome và London dựa vào trí nhớ sau khi bay trên bầu trời thành phố bằng trực thăng. Wiltshire là một thiên tài tự kỷ. Anh ta có một khả năng nhận biết bất thường cho phép anh ta nhớ lại từng chi tiết của bản thiết kế, các con số và các số liệu đo đạc thường là quá khó nhớ với người khác. Khái niệm người tự kỷ là một thiên tài đã được phổ biến đi từ nhân vật Dustin Hoffman trong bộ phim “Rain Man.”

    Marion công nhận có một bộ phận nhỏ những người tự kỷ có một số khả năng đặc biệt, nhưng không thể gán đặc tính này cho đại bộ phận người tự kỷ. Ông nói số đông người tự kỷ chẳng hề có một tài năng hay kỹ năng gì làm họ xuất chúng cả. Nhưng đó là sự khác biệt ở từng trẻ cũng như trẻ bình thường. “Mỗi trẻ đều có điểm mạnh và yếu cả,” Marion nói. “Quan trọng là tất cả trẻ tự kỷ đều phải được đánh giá nhiều mặt bởi các chuyên gia y học đã có kinh nghiệm đánh giá kỹ năng và những khiếm khuyết của trẻ, để định ra một kế hoạch dạy trẻ đem lại lợi ích tối đa.”

    Người ta thường nghĩ rằng một trong những khó khăn lớn nhất của trẻ Tự kỷ là khi đi học, trẻ không thể tạo được các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mà cần phải có các trường chuyên biệt cho các em. Nhưng thực ra, với những trẻ tự kỷ ở mức độ trung bình thì các em vẫn có thể có bạn bè trong số trẻ bình thường trong trường, lớp của mình và việc theo học ở các trường bình thường lại là cơ hội cho các em “thực hành” các bài tập giao tiếp trong chương trình can thiệp tại gia đình của mình.

    Do có những hành vi kỳ quặc và đôi khi là những cơn bùng nổ, nên trẻ tự kỷ, nhất là những trẻ lớn hay người tự kỷ đã trưởng thành thường bị xem là mối đe dọa cho xã hội. Đây cũng là một thách thức không nhỏ, nó khiến cho các em HS có thể có thái độ cô lập hay tẩy chay người bạn tự kỷ của mình. Tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể bộ phận những người tự kỷ, thì số người dính vào tội phạm là rất nhỏ, Nếu người tự kỷ nào đó có ra tay làm gì thì có thể là họ cảm thấy khó chịu hoặc bị kích động quá mức, chứ không nhất thiết là từ động cơ đen tối.

    Cũng xuất phát từ việc cho rằng người tự kỷ không cảm nhận được hay thể hiện bất kỳ một cảm xúc nào, nên họ sẽ không thể hiểu được cảm xúc của người khác. Nhưng thực ra, người tự kỷ vẫn có những cảm xúc và cảm nhận về cảm xúc nhưng theo một cách khác mà thôi. Vì vậy, họ có thể không phát hiện được nỗi buồn của người khác qua việc trò chuyện hay sự mỉa mai trong câu nói theo kiểu “ nói vậy mà không phải vậy” Nhưng nếu cảm xúc được truyền đạt một cách cụ thể và rõ ràng thì người tự kỷ có rất nhiều khả năng để cảm nhận được điều đó.

    Cuối cùng, có nhiều bậc phụ huynh khi con mình bị “chẩn đoán” là Tự kỷ thì thường có cảm giác như nhận một bản án chung thân và hoàn toàn mất phương hướng về việc can thiệp cho con mình. Với thì giờ hạn hẹp có thể giành cho con và với những “kiến thức – kỹ năng” hạn chế, họ cho rằng mình không thể làm gì và điều cần làm là phải tìm ra một phương pháp thần kỳ nào đó, với những chuyên gia giầu kinh nghiệm. Đó sẽ là lời giải, vì thế họ không tiếc công, tiếc của để tìm kiếm những phương pháp can thiệp, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít tiền đến cực kỳ tốn kém, thậm chí có thể cho con ra “điều trị” ở nước ngoài. Họ không nghĩ rằng, điều mà đứa trẻ cần nhất chính là khả năng giao tiếp, và chính họ là người mà đứa trẻ cần thiết lập được khả năng giao tiếp đầu tiên để từ đó, qua họ như một chiếc cầu nối trẻ với thế giới bên ngoài, đứa trẻ mới dần dần mới có thể “ mở cửa” phá bỏ tình trạng “ bế quan, tỏa cảng” về mặt tâm lý của mình để từng bước một hòa nhập với thế giới bên ngoài, không phải với những phương cách bình thường, mà là những cách thức giao tiếp của một người tự kỷ.

    Nói cách khác trẻ tự kỷ được can thiệp tại gia đình, vẫn là trẻ tự kỷ nhưng đó là một đứa trẻ có khả năng giao tiếp và học tập theo cách thức của chính nó, đê có thể phát triển chứ không phải đó là một đứa trẻ đã được “cứu vớt” hay “điểu trị” để “quay về” hay “trở lại thiên đường” của những kẻ bình thường trong vòng tay người mẹ.

    Ngoài những ngộ nhận về tình trạng và nguyên nhân, hiện nay còn có những ngộ nhận mà ta có thể gọi là cố tình, đến từ những đơn vi kinh doanh, sản xuất các loại thực phẩm chức năng chiết xuất từ các loại thảo dược như Đinh lăng, Chùm ngây.  Họ lập luận với nhiều chứng cơ khoa học, do một số nhà nghiên cứu được họ trả tiền để giới thiệu.

     

    CHA MẸ PHẢI LÀM GÌ ?

    Như đã nói trên, việc chẩn đoán và phát hiện sớm tình trạng tự kỷ ở trẻ là hết sức quan trọng, các phụ huynh có thể xem xét các dấu hiệu để phát hiện tình trạng của con em mình, nhưng để đánh giá một cách hiệu quả là nên đưa trẻ đến các trung tâm, hòng khám có uy tín với những chuyên gia tâm lý có đủ kiến thức và kinh nhiệm để nhận ra các tình trạng và mức độ khác nhau của mỗi trẻ.

    Việc chẩn đoán là cần thiết nhưng việc phải có một kế hoạch can thiệp lâu dài cho trẻ mới là điều quan trọng. Một chương trình can thiệp không nhất thiết là phải tiến hành tại các trung tâm điều trị tâm lý hay các trường chuyên biệt, mà ngay tại nhà của các em và người thầy tốt nhất cho các em không ai khác, chính là bố mẹ của trẻ tự kỷ. Như vậy, nếu đã có chương trình can thiệp tại gia đình, thì việc đưa trẻ đến các trường bình thường có phải là điều không cần thiết ?

    Thực ra, khi trẻ tự kỷ đã có được một số kỹ năng nhất định, thì việc cho trẻ đến trường là điều hữu ích, nó giúp cho các em có cơ hội “thực hành” những điều đã được bố mẹ tập luyện tại gia đình. Điều này có vẻ như ngược lại với trẻ bình thường, khi các em đến trường để tiếp thu kiến thức, và khi về nhà thì bố mẹ sẽ đánh giá hay ôn lại cho các em. Còn trẻ tự kỷ thì lại được bố mẹ “dạy” ở nhà để đến trường, khi chơi với các trẻ khác, các em sẽ từ từ vận dụng những gì mình đã được học đi học lại nhiều lần ở nhà.

    Tuy nhiên, việc thay đổi hành vi nhận thức của trẻ tự kỷ là điều không thể, vì thế việc cho các em hội nhập tham gia các hoạt động chỉ là yếu tố để các em được cư xử như một trẻ bình thường , dĩ nhiên là với một cách thức riêng theo kiểu của các em. Chúng ta không buộc trẻ Tự kỷ phải trở thành bình thường, hay có những ứng xử bình thường, mà chúng ta hãy đối xử với các em một cách bình thường, tạo cơ hội cho các em có thể chơi đùa với các trẻ em xung quanh, tham gia các hoạt động trong khả năng cho phép. Đó mới gọi là sự hội nhập một cách có ý nghĩa và giá trị nhất đối với trẻ tự kỷ.

    Để xây dựng một chương trình can thiệp với trẻ Tự Kỷ không phải là điều dễ dàng. Nhìn chung, sự can thiệp cho trẻ cần lưu ý đến các yếu tố :

    • Khả năng can thiệp sớm ngay sau khi phát hiện và đánh giá được mức độ khó khăn của trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên.
    • Khả năng phối hợp giữa nhà chuyên môn, giáo viên và phụ huynh mà trong đó phụ huynh đóng vai trò chính yếu. Đây là yếu tố quyết định cho hiệu quả của chương trình can thiệp bao gồm can thiệp tại gia đình và can thiệp với một số phương pháp và kỹ thuật khác nhau tại các cơ sở, trung tâm.
    • Khả năng cá biệt hóa, mỗi trẻ là một tình trạng là một mức độ và có những môi trường sống khác nhau. Vì thế mỗi em phải có một chương trình giáo dục cá nhân.

    Can thiệp sớm:

    Can thiệp sớm là sự hướng dẫn sớm (mang tính giáo dục) cho trẻ và gia đình trẻ. Can thiệp sớm trong 5 năm đầu có thể làm tăng chất lượng cuộc sống cho trẻ và gia đình trẻ. Đây chính là sự chuẩn bị quan trọng cho việc cải thiện các năng lực và nhận thức giúp cho trẻ hội nhập.

     

    Chương trình Can thiệp sớm giúp cho đứa trẻ phát triển :

    1. Khả năng di chuyển, vận động, nhìn và nghe.(Thể chất)
    2. Khả năng nhận thức và tiếp thu (tri thức)
    3. Khả năng hiểu lời, nói ra và diễn tả (Ngôn ngữ )
    4. Khả năng tiếp xúc và chấp nhận người khác (Quan hệ)
    5. Khả năng tự phục vụ (ăn, uống, tắm) và tự giúp mình (Thích ứng)

     

    Chương trình Can Thiệp sớm sẽ giúp gì cho phụ huynh:

    • Giúp giải đáp những thắc mắc của PH về những vấn đề trong sự phát triển của trẻ
    • Giúp PH hiểu và gần gũi với trẻ đúng mức và hợp lý hơn
    • Cải thiện tình trạng phát triển của trẻ
    • Giúp ngăn ngừa tình trạng rối nhiễu gia tăng theo thời gian.
    • Giúp trẻ có thể hội nhập vào trường lớp ( nếu can thiệp trước 3 tuổi )

    Chương trình Can thiệp sớm gồm những hoạt động gì ?

    Tùy theo tình trạng của đứa trẻ thông qua chẩn đoán , cần phải có các hoạt động sau:

    1. Hoạt động tư vấn chẩn đoán : là một hoạt động tầm soát nhằm đánh giá khả năng phát triển của trẻ – nhận ra các yêu tố nguy cơ và thuận lợi về tình trạng của trẻ, từ đó phụ huynh sẽ được tư vấn về các biện pháp can thiệp hay trị liệu cho con mình.
    2. Hoạt động huấn luyện phụ huynh: Tùy theo yêu cầu của phụ huynh –chuyên viên tâm lý sẽ chẩn đoán và xây dựng một chương trình can thiệp cho trẻ tại gia đình. Phụ huynh sẽ được hướng dẫn thưc hiện kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ để từng bước giúp trẻ phát triển theo yêu cầu.
    3. Hoạt động Can thiệp- Trị liệu: Đây là hoạt động thực hiện trong một khoản thời gian nhất định ( Tùy theo điều kiện thực tế ) để giúp phụ huynh nắm vững những kỹ năng và kiến thức trong quá trình áp dụng chương trình chăm sóc/ giáo dục/ can thiệp cho trẻ một cách thích hợp với tình trạng của trẻ và hoàn cảnh gia đình.  Hoạt động can thiệp có thể diễn ra dưới 3 hình thức :
      – Can thiệp tại một cơ sở giáo dục chuyên biệt, dành cho những em có mức độ rối nhiễu nặng , nhưng vẫn cần sự chăm sóc hợp lý của phụ huynh tại gia đình.
      – Can thiệp theo giờ tại cơ sở hay bởi một giáo viên tại gia đình , dành cho những trẻ ở mức độ trung bình nặng và trung bình. Hoạt động này cần có sự phối hợp tích cực với 3 vai trò : Giáo viên – Phụ huynh và Chuyên viên.
      – Trẻ đi học bình thường và phụ huynh hay giáo viên can thiệp thêm tại gia đình, dành cho mức độ nhẹ.

    Trong phần can thiệp, có nhiều phương pháp khác nhau, tùy theo tình trạng, mức độ và điều kiện môi trường mà chuyên viên, giáo viên và phụ huynh có thể đưa vào các phương pháp thích hợp, chứ không nên dựa vào hoàn toàn một phương pháp đặc thù nào.

     

    Chương trình Can thiệp – trị liệu bao gồm :

    • Phần Chẩn đoán tình trạng – khả năng phát triển của trẻ : Phần này do chuyên viên tâm lý sau khi thăm khám cung cấp cho phụ huynh.
    • Với sự hợp tác của phụ huynh, sẽ có phần liệt kê các nguyên tắc, kỹ thuật dành cho trẻ và cả những thông tin về khả năng phát triển của trẻ.
    • Các bài tập mà phụ huynh và giáo viên sẽ thực hiện cho trẻ
    • Một Lịch hoạt động hàng ngày được phụ huynh xây dựng tùy theo khả năng phát triển của trẻ ( phù hợp với điều kiện thực tế tại gia đình )
    • Những kế hoạch hàng tuần để vạch ra mục tiêu cụ thể cho sự can thiệp giáo dục do phụ huynh đưa ra, sau đó nếu cần thiết sẽ có sự góp ý của chuyên viên.

    Chương trình Can thiệp trị liệu là một tiến trình kéo dài liên tục, mang tính phối hợp ưu thế của các phương pháp can thiệp khác nhau,  dựa trên các nhu cầu và năng lực của trẻ . Điều đó có nghĩa là nó có thể thay đổi dựa trên  sự tiến bộ hoặc trì trệ của trẻ. Do đó Chương trình Can thiệp – trị liệu  phải được giáo viên – phụ huynh theo dõi và vận dụng thường xuyên, ít nhất 3 – 6 tháng và có thể điều chỉnh, sửa đối với sự góp ý của chuyên viên tâm lý.

    Bên cạnh các hoạt động can thiệp do Giáo viên đặc biệt phụ trách,  tùy theo tình trạng và mức độ của trẻ, với sự tư vấn của chuyên viên tâm lý, phụ huynh có thể cho các em tham gia thêm các hoạt động sau

    • Hoạt động âm ngữ trị liệu :Dành cho các em có khó khăn về ngôn ngữ nói , cách phát âm, diễn đạt . Chuyên viên âm ngữ hay phụ huynh được huấn luyện bài bản về các kỹ thuật ( Phương pháp “ More Than  Words” – Nhiều hơn lời nói hay Pecs – Picture Exchange Communication System : Hệ thống giao tiếp thông qua trao đổi bằng hình ảnh ) hoặc  AAC – Hệ thống giao tiếp tăng cường và thay thế. ) Các kỹ thuật này là những phương pháp giúp trẻ hình thành ngôn ngữ nhưng không phải là một chương trình can thiệp riêng biệt.
    • Hoạt động Tâm vận Động : Đây là một kỹ thuật đặc thù không chỉ đơn thuần là giúp trẻ phát triển về khả năng vận động thô và tinh, mà còn là một liệu pháp tâm lý giúp trẻ tái tạo lại khả năng làm chủ cơ thể, giải tỏa những ức chế, những lo lắng căng thẳng trong đời sống tâm lý của các em . Phương pháp này hiện nay chưa được phổ biến sâu rộng và cũng chưa có nhiều chuyên viên được đào tạo bài bản, mà nó lại có những biến tướng, thường bị nhầm lẫn với các kỹ thuật Hoạt động vận động trị liệu, chủ yếu dành cho trẻ bại não. Ngoài ra, nhiều giáo viên chỉ có những khái niệm sơ cấp về tâm vận động, cũng thường dùng nó như một cách để xây dựng uy tín cho cơ sở can thiệp của mình, khi nói rằng họ có một Phòng can thiệp tâm vận động.

    KẾT LUẬN

    Tiến trình phát hiện – chẩn đoán – Can thiệp – Trị liệu và hòa nhập trẻ tự kỷ có thể nói là một hành trình gian nan, chưa có hồi kết mà lại có quá nhiều những hiểu biết sai lầm , không chỉ đến từ các phụ huynh mà còn ở cả những nhà chuyên môn, cả những kẻ kinh doanh và cả giới truyền thông, với những cách gọi, cách nghĩ và cách quảng bá lệch lạc, thiếu sót, thậm chí là phản khoa học, đã gây nhiễu loạn cho cộng đồng các gia đình có con tự kỷ.

    Cho đến nay, thì cuộc chiến giữa cái đúng – cái sai, cái thật – cái giả để xác định thế nào là tự kỷ, thế nào là những biện pháp, kỹ thuật can thiệp hiệu quả vẫn còn tiếp diễn một cách thầm lặng nhưng không kém phần quyết liệt để có thể đem lại những giá trị đích thật cho các “ thiên thần bất hạnh” này.

    CVTL LÊ KHANH .

    Cố vấn chuyên môn KIDSTIME ( Hà Nội )