Danh mục: Giáo Dục

  • VAI TRÒ CỦA SỞ THÍCH TRONG HƯỚNG NGHIỆP

    VAI TRÒ CỦA SỞ THÍCH TRONG HƯỚNG NGHIỆP

    Người ta hiếm khi thành công

    nếu không làm điều mình thấy vui thích.

    Dale Carnegie

    Thế nào là sở thích?

    Ngày xưa, khi trẻ bắt đầu biết cầm nắm, biết khám phá thế giới qua các món đồ chơi thì nhiều gia đình lại dựa vào đó để suy đoán về nghề nghiệp tương lai qua việc trẻ thích chơi món gì. Điều đó như là một trò chơi nhưng có khi lại tạo ra một số các suy luận chủ quan . Nếu trẻ nắm lấy món đồ chơi là cây viết, thì suy đoán trẻ sẽ theo nghiệp văn chương ( có khi chĩ biết ký giấy nợ ! ) và lấy làm thích chí, nếu trẻ nắm lấy cây búa hay cái đục, thì lại lấy làm buồn bực vì cho rằng  sau này trẻ chỉ đi làm thợ ( có khi lại trở thành kỹ sư thì sao ? )

    Có một số trẻ thì món đồ chơi gì cũng chơi, cũng cầm lên nhưng có một số trẻ khác lại tỏ ra gắn bó với vài món đồ chơi nào đó. Trẻ đã có sự chọn lựa theo sở thích, với những món này thì trẻ có thể chơi hàng giờ không chán. Như vậy, sở thích là sự quan tâm đặc biệt của trẻ đến một món đồ chơi hay một món đồ dùng nào đó. Sở thích cũng là sự ham thích chơi trong một trò chơi, một hoạt động nào đó đã thu hút trẻ một cách say mê, hay rất tập trung.

    Các bà mẹ thường dễ dàng nhận ra sở thích của con mình, nhưng để trả lời là tại sao trẻ thích cái này mà không thích cái kia lại là một điều không dễ, có những lý do khá đơn giản như về mầu sắc, tiếng kêu vui tai có thể thu hút trẻ, nhưng cũng có những nguyên nhân sâu xa, đôi khi nằm trong vô thức, nhất là đối với những vật khiến trẻ sợ hãi hay có ác cảm. Có thể đó là vật đã gây ra cho trẻ những tác động từ lúc còn sơ sinh, nhưng chỉ đến khi lớn hơn trẻ mới có khả năng bầy tỏ phản ứng với vật đó qua sự hứng thú hay ghét bỏ.  Chính việc trẻ thích chơi với món đồ chơi này, thích ăn món này, thích mặc cái áo này mà không thích món đồ chơi kia, món ăn kia dù cũng ngon lành không kém… cũng là một yếu tố tạo ra những sở thích khác nhau ở mỗi đứa trẻ bắt nguồn từ những tác động khi còn sơ sinh.

    Việc trẻ thích chơi món này hay món kia cũng bộc lộ xu thế về phái tính, đó là trẻ trai thì thường chơi những trò chơi mạnh bạo, leo trèo, đa số thích chơi xe hơi, rô bốt hay những trò chơi đấm đá theo kiểu các hiệp sĩ, siêu nhân …với dao kiếm, súng ống. Còn trẻ gái thì thường thích chơi với búp bê, hay thích chơi trò nấu ăn, bán hàng … và nếu như một bé trai mà lại thích chơi với búp bê, một bé gái thích trở thành siêu nhân thì sẽ gây ra sự lo ngại không ít vì cái sở thích trái ngược “truyền thống phái tính” của mình ! Thậm chí đó có thể là dấu hiệu ban đầu của một giới tính thứ ba, thuộc loại “xăng pha nhớt” mà bậc cha mẹ nào cũng “hãi hùng” nếu con mình chẳng  may lại trở thành một kẻ đồng tính khi lớn lên! Tuy nhiên, đôi khi vấn đề lại đơn giản hơn vì có khi đó lại là ảnh hưởng của môi trường gia đình.

    Sở thích đem lại những giá trị gì ?

    Người ta có thể dựa trên sở thích để đánh giá khả năng phát triển hay những rối nhiễu về tâm lý của trẻ. Việc một đứa trẻ không thích bất cứ một món đồ chơi nào, không thích chơi với các loại đồ chơi mà lại chỉ tỏ ra quan tâm đến những món đồ thật, nhất là những vật có những  nút bấm như điện thoại di động, máy tính hay những vật bất kỳ như những cái hộp, cuốn băng video, thậm chí là trẻ có thể chỉ thích xếp những chiếc dép, giầy theo một trật tự nhất định, hoặc lại chỉ quan tâm đến những con số, có thể chỉ ra và đếm một cách dễ dàng từ 1 đến 100 hay hơn nữa… lại cho thấy, đó là những dấu hiệu của tình trạng Tự Kỷ, một hội chứng rối loạn phát triển khiến cho trẻ không có khả năng quan hệ giao tiếp, khó khăn khi học tập và phát triển các kỹ năng như một đứa trẻ bình thường mà cho đến nay vẫn chưa có những liệu pháp trị liệu hiệu quả.

    Sở thích là yếu tố đánh giá khả năng

    Sở thích không hẳn chỉ là những thứ hay những điều mà mình ưa thích mà nó còn là một yếu tố để đánh giá khả năng phát triển hay năng lực của một đứa trẻ. Sở thích cũng là một yếu tố quan trọng để đạt được những thành công trong các hoạt động của mình.

    Một nhà giáo dục Nhật Bản đã phát biểu: “Thiên tài chính là sự say mê một cách kiên trì với lòng ham thích” ông cũng nói: “Cách tạo ra một người tầm thường vô cùng đơn giản, đó là đừng để cho trẻ ưa thích một điều gì cả, chỉ cần thế thôi cũng đủ rồi !” Như vậy, chúng ta thấy chính sở thích được biểu lộ qua các trò chơi với những món đồ chơi, tuy không phải là một dự báo chính xác về thiên hướng nghề nghiệp sau này, nhưng nó lại là tiền đề cho một quá trình hình thành nhân cách và kỹ năng của một đứa trẻ.

    Nói cách khác là những bậc cha mẹ và những nhà giáo dục, chúng ta phải tìm kiếm và khơi gợi ở đứa trẻ lòng ham thích, trẻ có thể thích món này, thích món kia và dần dần sẽ tiến đến việc ưa thích vận động chơi đùa và tham gia những hoạt động trong gia đình, từ đó sẽ phát triển thành sự ham thích tìm hiểu, học tập. Ở đây, điều thúc đẩy và hình thành lòng ham thích của trẻ không gì khác hơn chính là sự ham thích của cha mẹ. Chính tấm gương qua sự bầy tỏ sự ham thích của người lớn, của các bậc cha mẹ là một yếu tố quan trọng hình thành sở thích nơi đứa trẻ. Như vậy, ngoài các yếu tố bẩm sinh thì sở thích cũng có thể được hình thành và phát triển qua sự bắt chước, qua việc tạo dựng cho trẻ những môi trường và điều kiện thích hợp và nhất là để cho trẻ có thể chọn lựa một cách tuỳ ý.

    Sở thích sẽ đem đến hạnh phúc

    Sở thích là bước đầu cho sự say mê, có thể trẻ thích nhiều thứ bởi vì hầu như tất cả đều mới mẻ với sự khám phá dần dần của trẻ. Nhưng qua sự sàng lọc, chỉ còn lại một vài hoạt động gây cho trẻ sự hứng thú thật sự, và dần dà phát triển lên thành mối đam mê, nhờ đó trẻ đạt được những kết quả khả quan nhất trong việc tập luyện cho mình những kỹ năng nhằm đáp ứng nhu cầu do sở thích đem lại, cho dù có phải vượt qua những trở ngại khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta đã thấy biết bao nhiều người nhờ có sự hứng thú đặc biệt với một vật dụng hay một kỹ năng nào đó để dần dà hình thành những bộ sưu tập, đôi khi rất có giá trị và đem lại cho người sở hữu chúng những lợi ích từ tinh thần đến vật chất.

    Có thể nói, sở thích hay sự ham thích là người thày tốt nhất để đào tạo một con người, đi từ chỗ không biết cho đến chỗ thành thục, đi từ những điều tầm thường đến sự tinh xảo. Không những thế, sở thích cũng là một sự dẫn dắt có hiệu quả nhất trong sự hình thành một nghề nghiệp trong tương lai. Một đứa bé ham mê cây cỏ có thể trở thành một nhà khoa học về thực vật học, nhưng cũng có thể trở thành một người trồng hoa, ươm giống cây hay trồng cây cảnh và đạt được những thành công nhất định trong lĩnh vực mà mình ưa thích. Một trẻ ham mê nấu ăn có thể trở thành một nhà buôn bán thực phẩm nhưng cũng có thể trở thành một đầu bếp nổi tiếng. Chúng ta đã biết có nhiều thanh niên chấp nhận bỏ ngang việc học ở các đại học danh tiếng, trong những ngành học đầy tương lai để đi theo tiếng gọi của lòng say mê và đã đạt được những kết quả trong các công việc mà ngay cả những sinh viên tốt nghiệp hạng ưu cũng mong muốn. Nhưng, nếu chỉ với lòng say mê thì chưa đủ, mà còn phải có ý chí  kiên định, phải có những kỹ năng vững vàng và cả sự may mắn nữa.

    Chúng ta thấy, trẻ nào cũng thích thú với trò chơi và đồ chơi, nhưng khi lớn hơn hầu hết vẫn là những học sinh bình thường, bởi vì từ sở thích muốn muốn nâng lên thành sự say mê thì không phải trẻ nào cũng đạt được và cũng chỉ có một tỷ lệ nào đó thành công với sự say mê duy trì được từ thủa còn thơ.  Thậm chí ngay cả với những trẻ có những sự ham thích và say mê rõ rệt về một lĩnh vực nào đó, thì cũng đâu phải ai  cũng có thể bước vào môi trường mà mình ưa thích mà có khi chính vì sự say mê không được đáp ứng đó, sẽ khiến cho trẻ trở thành một người bất đắc chí, luôn có sự chán nản với công việc và hoàn cảnh sống hiện tại của mình và không những không thể thành công, mà còn gặp phải những thất bại có thể “sờ thấy được” cho dù cũng có một sự say mê.

    Như vậy, chúng ta thấy sở thích là bước đầu cho sự say mê, sự say mê là bước đầu cho khuynh hướng nghề nghiệp và những bước tiếp theo là phải có sự góp sức của những yếu tố và năng lực khác trong việc khám phá năng lực, tính cách , môi trường sống..để từ đó có những địh hướng tốt nhất cho nghề nghiệp tương lại của trẻ.

    Nếu không có sở thích và sự say mê, thì đứa trẻ tuy cũng có thể đạt được những thành công khi có được những yếu tố khác, có khi chỉ nhờ may mắn hay “ gia đình có điều kiện!” Nhưng chắc chắn rằng đối với con người, nếu đạt được sự thành công trong cuộc sống nhờ vào yếu tố say mê, đó mới là niềm vui lớn nhất. Hay nói rõ hơn, nếu chúng ta làm được công việc mà mình say mê và  được sống trong môi trường mà mình ưa thích thì đó chính là hạnh phúc mà không phải ai cũng có được.

    CVTL Lê Khanh – KIDSTIME BÌNH THẠNH.

  • CHƠI TRONG VUI VẺ HAY DẠY TRẺ TRONG HOANG MANG

    CHƠI TRONG VUI VẺ HAY DẠY TRẺ TRONG HOANG MANG

    Hiện nay trong lĩnh vực giáo dục – can thiệp trẻ đặc biệt, tuy còn nhiều hạn chế và khác biệt để chẩn đoán xác định tình trạng và nhất là để đánh giá mức độ nặng nhẹ của các chứng rối loạn phát triển, nhưng đa phần chúng ta đều đồng tình là phải áp dụng các biện pháp can thiệp qua giáo dục chứ không phải qua việc điều trị bằng thuốc hay các kỹ thuật y khoa. Thế nhưng, để chọn ra một phương pháp  tốt nhất cho việc can thiệp trẻ thì chúng ta dường như đang đứng trước thách thức, đó là ta sẽ can thiệp dưới hình thức nào ? Điều trị – hướng dẫn hay tác động ?

    Phải chăng khi đưa ra câu hỏi này là thừa? Bởi vì câu trả lời đã rõ ràng!  Ta sẽ can thiệp cá nhân ( 1 cô 1 trò ) can thiệp bằng phương pháp mà ta biết hay được học ( ABA /VB – TEACH – Floot time – RDI .v.v.v ) tại các trường chuyên biệt, các trung tâm hay lớp học tư gia.  Bởi vì chỉ có can thiệp sớm như thế, trẻ mới có thể “ tiến bộ” thậm chí là thoát khỏi tình trạng tự kỷ . Điều này có đúng không? câu trả lời vẫn là “may thầy – phước chủ” Có những trẻ tiến bộ về một số mặt nào đó, chủ yếu là “nói được”và biết vâng lời. Nhưng cũng không thiếu trẻ “không nhúc nhích” ! Lúc đó người dạy lại cho rằng tại trẻ hay tại bố mẹ không “hợp tác” ! Nhưng như thế nào là sự hợp tác của phụ huynh? lại là một thách thức, khi mà phụ huynh đã nói rõ: “Chúng tôi không có chuyên môn và  thời gian, thôi thì trăm sự nhờ các thầy, cô !”

    Khi tiến hành việc can thiệp, tùy vào quan điểm và năng lực của nhà trường và giáo viên, mà những người có trách nhiệm sẽ chọn một hay vài kỹ thuật làm chủ đạo vì chắc chắn không thể chọn tất cả. Nhưng dù chọn bất cứ phương pháp nào, thì chúng ta cũng phải biết là không có một kỹ thuật nào hoàn hảo và kỹ thuật nào cũng phải dựa trên chính đứa trẻ. Nếu chúng ta có được một cái nhìn tổng quan thì sẽ thấy trong hầu hết các phương pháp can thiêp chính thống đều có những điểm chung, đó là :

    MỤC TIÊU : Phải phù hợp với khả năng của từng trẻ, không thể đòi hỏi trẻ phải nỗ lực đáp ứng một yêu cầu cao hơn khả năng hiện có của trẻ.

    PHƯƠNG PHÁP: Làm mẫu và nhắc nhở. Nhưng điều quan trọng là không phải làm mẫu như một dạy trẻ với sự áp đặt mà phải giống như một người bạn của trẻ.

    KHÍCH LỆ : luôn cổ vũ sự cố gắng dù rất ít, rất kém của trẻ chứ không phê phán chê trách việc trẻ chưa đạt được kết quả

    TIỆM TIẾN : Luôn nhắc nhở, lập lại những gì trẻ đã có thể làm được mà chưa hoàn thiện, chứ không đi theo một đường thẳng, những gì đã dạy thì không lập lại nữa.

    NƯƠNG THEO TRẺ : Đây là yếu tố quan trọng nhất, chúng ta phải đi theo sự dẫn dắt của trẻ chứ không tìm mọi cách buộc trẻ phải đi theo sự chỉ dẫn của người dạy.

    Như thế các hoạt động DẠY trẻ sẽ khó có thể đáp ứng một cách đầy đủ và tích cực các nguyên tắc trên, bởi vì khi dạy trẻ thì các GV ít nhiều gì cũng phải đáp ứng  một mục tiêu chung, đó là làm sao cho trẻ nói được trong thời gian sớm nhất theo kỳ vọng của bố mẹ. Còn về kỹ thuật dạy thì GV thường làm mẫu trong tư thể buộc trẻ phải làm theo, không ít GV trong khi dạy trẻ lại rất tiết kiệm lời khen (hay khen một cách chiếu lệ, vô cảm) bởi vì bé hầu như không thể tiến bộ theo mong đợi. GV thường dạy trẻ theo phương pháp từ thấp đến cao, ít khi muốn quay lại điều đã tập cho trẻ,  chỉ muốn dẫn dắt và tìm mọi cách để trẻ phải đi theo mình.

    Trong khi đó thì hoạt động CHƠI với trẻ lại có thể đáp ứng tất cả các yêu cầu trên. Hãy thử quan  sát một đứa trẻ, hay vài đứa trẻ đang chơi, chúng ta thấy gì ? Trẻ có thể chơi với bất kỳ mục tiêu nào miễn là phù hợp với nhu cầu và khả năng của nó. Trẻ kém thì chỉ cần làm được, trẻ giỏi mới đặt ra yêu cầu phải thắng! Trẻ chơi trong sự khích lệ cổ vũ nhiệt tình của bạn bè, bất kể là làm tốt hay chưa tốt ! Trẻ luôn lập lại các kiểu chơi mà mình đã biết, nhưng sẽ dần dần hoàn thiện với sự chú ý và tự chủ mà không cần phải có sự hướng dẫn hay thúc đẩy. Điều quan trọng nhất là trẻ hoàn toàn làm chủ cuộc chơi, không quan tâm gì đến những chi phối hay sự tác động từ bên ngoài vì thế sẽ nâng cao khả năng tập trung và tự tin!

    Thế nhưng, tại sao từ các nhà chuyên môn, các giáo viên cho đến các phụ huynh của trẻ, đều xem việc can thiệp ( có khi còn gọi một cách quan trọng là trị liệu ) là việc DẠY CHO TRẺ chứ không phải là hoạt động CHƠI CÙNG TRẺ.

    Chính suy nghĩ hay quan điểm là phải dạy và phải biết cách dạy trẻ  đã khiến cho phụ huynh ngần ngại, thậm chí là không dám hay không muốn bước vào một hoạt động mà họ nghĩ rằng rất khó khăn, đòi hỏi kinh nghiệm và chuyên môn cao: Đó là dạy con họ tiến bộ trong các kỹ năng thường ngày và giảm đi các hành vi tiêu cực. Cho dù họ đã từng hay chưa từng tham gia một khóa huấn luyện nào thì họ vẫn muốn có một nơi để gửi trẻ và một giáo viên để dạy trẻ.  Có nhiều phụ huynh đã chịu khó “sưu tầm” rất  nhiều tài liệu can thiệp đến từ nhiều nguồn khác nhau. Chăm chỉ tham gia hết khóa huấn luyện này đến khóa huấn luyện khác,  thì điều họ rút ra vẫn là gì ? Giáo viên và chuyên viên vẫn là vai trò chủ lực. Thậm chí có khi họ sẽ nhờ một GV về can thiệp và hướng dẫn cho GV cách dạy ! Cũng có khi họ tự đứng ra dạy trẻ. Lúc đó thì họ đã trở nên 1 giáo viên đúng nghĩa.

    Ngay chính các giáo viên và không ít các “chuyên gia” vẫn tin rằng việc trị liệu hay can thiệp, giáo dục trẻ chỉ có thể diễn ra trong lớp học, sau cánh cổng của ngôi trường chuyên biệt hay một trung tâm can thiệp. Nếu tại nhà, thì phải ở trong một phòng riêng, gọi là lớp hay phòng can thiệp cá nhân với 1 cô và 1 trò. Phụ huynh không cần hay không thể tham gia vào tiến trình này chứ đừng nói là đóng vai trò “chủ chốt” !

    Các giáo viên ( hay chuyên viên ) khi đến với các em trong các giờ can thiệp, thì trong tâm thức của họ, luôn nghĩ đến việc phải làm cách nào đó để dạy cho bằng được ( Bằng dọa dẫm hay bằng dụ dỗ), họ phải dạy trong tư thế đối diện – 1 – 1 , và sẽ “đánh vật” với trẻ trong 1 giờ can thiệp cá nhân để cố “nhồi vào đầu” các em các danh từ  ( Con gà, con vịt, con bò, cái xe, ông bố, bà mẹ …. ) hay các khái niệm về hình dáng, màu sắc, con chữ, con số …để buộc các em phải “bật âm” phải nói ra cho bằng được ! ( vì nói được mới học được , nói được mới được xem là tiến bộ ) . Tại sao lại khó có thể “ vượt ra khỏi cái hộp” là vượt ra khỏi quan điểm phải dạy mà không nghĩ rằng là mình chỉ đến “chơi với trẻ” ? cũng với mục tiêu là giúp trẻ tiến bộ !

    Đùa à ? Phụ huynh họ bỏ ra mỗi tháng hàng triệu đồng cho mình chỉ để đến chơi với con họ chắc ? Điên à ? Mình cũng đã phải bỏ ra hàng 3, 4 năm trong trường sư phạm,  thậm chí đạt đến trình độ thạc sĩ. Phải bỏ ra bao nhiêu công sức thu thập tài liệu, bao nhiêu thì giờ và tiền bạc tham gia đủ các khóa tập huấn, biết rất nhiều kỹ thuật chuyên môn, mà nay lại đi lăn lê bò toài với trẻ, lại để cho 1 đứa trẻ ngu ngơ xỏ mũi dắt đi, phải nương theo nó, để cho nó chủ động muốn chơi gì thì chơi? Một đống đồ dùng dạy học màu sắc rực rỡ, đắt tiền lại không chịu học, một đống công cụ “tâm vận động” đủ các kiểu theo đúng “tiêu chuẩn” mà  không chịu để  mình hướng dẫn, lại chỉ thích nằm lăn ra, mân mê các thứ không phải là đồ chơi.  Đã thế lại còn chạy lung tung, bắt ngồi một chỗ thì  tự đấm vào đầu, cào vào mặt, nằm lăn ra ăn vạ. Chưa đập cho vài roi là may rồi ! Phải ấn chúng vào cái ghế, phải bắt chúng tập trung nhìn vào các bức ảnh đang ẩn hiện trước mắt, phải tập cho tới khi chúng chịu nhìn vào mắt mình., phải lập đi lập lại hàng chục thậm chí hàng trăm lần các danh từ để chúng phải nhớ và nhắc lại. Nghĩa là phải biết hết sức chú ý, tập trung ngồi yên gần 1 giờ đồng hồ để tập “Âm ngữ trị liệu”. Phải biết làm theo cho đúng các hướng dẫn của mình trong giờ “Tâm vận động”. Trẻ  có thể còn phải tập thở, đai chéo hàng trăm lần trong giờ phục hồi chức năng… Phải biết ..phải biết và ..phải biết ! Đó mới là giáo dục, đó mới là can thiệp !

    Còn chơi ư ? đã có các giờ chơi ngoài sân hay trong phòng chơi với vài cái xích đu, cầu tuột, xe đạp ba bánh, cái sàn nhún, với các trái bóng trong nhà banh. Trong giờ chơi đó thì trẻ muốn làm gì thì làm, cô không quan tâm hay chỉ trông chừng, thậm chí là quát mắng hay ngăn cản khi trẻ quá hiếu động, chạy tới chạy lui, leo trèo rồi đánh bạn ..giật đồ chơi, ném đồ chơi vung vãi …không chịu ngồi yên để nghỉ mệt như cô. Có nơi lại còn bật TV cho trẻ xem để bớt quậy phá. Đó cũng là can thiệp mà ?

    Gần đây, có một phương pháp hướng dẫn trẻ gọi là JASPER (viết tắt bởi cụm từ: Joint Attention – Symbolic Play – Engagement Regulation … ) nghĩa là : Cùng chú ý – Chơi biểu tượng – Cùng tham gia – và điều tiết.  Phương pháp này đưa ra những nguyên tắc như khuyến khích trẻ có được sự cùng chú ý; khả năng bắt chước và chơi biểu tượng; phát huy khả năng khởi xướng và duy trì sự tham gia với người khác. Các nguyên tắc này trẻ sẽ thâu nạp trong các hoạt động chơi với giáo viên, phụ huynh hay với một số trẻ khác trong một nhóm chơi.  Như vậy, các nhà chuyên môn đã chú ý đến yếu tố CHƠI CỦA TRẺ mà họ xem đó là một giá trị cốt lõi. Chính việc tạo một môi trường cho trẻ Chơi, khuyến khích việc cùng tham gia của trẻ sẽ thúc đẩy sự phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp.

    Nói theo triết lý của TÂM VẬN ĐỘNG là trẻ biết chơi mới có thể học được, hay trẻ sẽ tiến bộ qua việc chơi chứ không phải qua việc học. Trẻ sẽ học được rất nhiều thứ qua chơi, với những cấp độ chơi khác nhau, và vì chơi có thể tiến hành bất cứ ở đâu, bất cứ thời điểm nào với bất cứ người nào chứ không phải chỉ là giáo viên hay chuyên viên trong một khuôn khổ chật hẹp của một phòng hay một lớp can thiệp.

    Như thế, môi trường nào tốt nhất cho trẻ chơi ? Đó là ở nhà của trẻ hay ngoài sân hoặc một nơi thoáng đãng – Trẻ chơi như thế nào ? Chơi theo sở thích và năng lực – Trẻ chơi với ai ? với bố mẹ và với các trẻ khác – Trẻ chơi lúc nào ? khi nào cũng được – Trẻ chơi như thế nào ? Trẻ sẽ chơi những trò chơi mà cách chơi phù hợp với năng lực và sự hứng thú . Tại sao lại là chơi ? Vì đó là điều trẻ có thể làm được một cách tốt nhất !

    Vậy thì tại sao không biến những buổi can thiệp trẻ thành những giờ phút vui chơi cùng trẻ, mà cứ phải vật vã hơn 1 tiếng đồng hồ với những tấm flash Card vô hồn (dưới sự theo dõi của camera cho PH an tâm ) rồi trong giờ DẠY trẻ thì GV phải tìm hết cách để “cắt đứt” những cơn bùng nổ của trẻ khi trẻ lo lắng, căng thẳng …Chấm dút sự lăng xăng của trẻ để buộc trẻ phải làm những điều mà người lớn cho là đúng và cần với trẻ, trong khi trẻ chỉ muốn và thích chơi ! Hãy cứ chơi với trẻ trong vui vẻ , đâu cần phải dạy trẻ trong hoang mang ..

    Saigon Tháng 7 – 2017

    CVTL. LÊ KHANH  –  KIDSTIME BÌNH THẠNH

  • CAN THIỆP HAY CÙNG CHƠI ?

    CAN THIỆP HAY CÙNG CHƠI ?

    NHỮNG NGỘ NHẬN

    Rõ ràng là các trẻ tự kỷ đều có những khó khăn về giao tiếp, ứng xử và ngôn ngữ. Điều đó đã hạn chế rất nhiều việc đi học hay hòa nhập xã hội của các em. Thế nhưng, cũng có những người Tự kỷ lại có những khả năng xuất chúng.

    Stephen Wiltshire, 34 tuổi, rất nổi tiếng là chiếc camera sống.  Anh ta có thể vẽ lại những thiết kế kiến trúc và cảnh quan chi tiết tới từng ngọn cỏ — dù chỉ mới quan sát khu vực đó một lần. Wiltshire đã từng vẽ lại quan cảnh của Tokyo, Rome và London dựa vào trí nhớ sau khi bay trên bầu trời thành phố bằng trực thăng. Wiltshire là một thiên tài tự kỷ. Anh ta có một khả năng nhận biết bất thường cho phép anh ta nhớ lại từng chi tiết của bản thiết kế, các con số và các số liệu đo đạc thường là quá khó nhớ với người khác. Khái niệm người tự kỷ là một thiên tài đã được phổ biến đi từ nhân vật Dustin Hoffman trong bộ phim “Rain Man.”

    Marion công nhận có một bộ phận nhỏ những người tự kỷ có một số khả năng đặc biệt, nhưng không thể gán đặc tính này cho đại bộ phận người tự kỷ. Ông nói số đông người tự kỷ chẳng hề có một tài năng hay kỹ năng gì làm họ xuất chúng cả. Nhưng đó là sự khác biệt ở từng trẻ cũng như trẻ bình thường. “Mỗi trẻ đều có điểm mạnh và yếu cả,” Marion nói. “Quan trọng là tất cả trẻ tự kỷ đều phải được đánh giá nhiều mặt bởi các chuyên gia y học đã có kinh nghiệm đánh giá kỹ năng và những khiếm khuyết của trẻ, để định ra một kế hoạch dạy trẻ đem lại lợi ích tối đa.”

    Người ta thường nghĩ rằng một trong những khó khăn lớn nhất của trẻ Tự kỷ là khi đi học, trẻ không thể tạo được các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mà cần phải có các trường chuyên biệt cho các em. Nhưng thực ra, với những trẻ tự kỷ ở mức độ trung bình thì các em vẫn có thể có bạn bè trong số trẻ bình thường trong trường, lớp của mình và việc theo học ở các trường bình thường lại là cơ hội cho các em “thực hành” các bài tập giao tiếp trong chương trình can thiệp tại gia đình của mình.

    Do có những hành vi kỳ quặc và đôi khi là những cơn bùng nổ, nên trẻ tự kỷ, nhất là những trẻ lớn hay người tự kỷ đã trưởng thành thường bị xem là mối đe dọa cho xã hội. Đây cũng là một thách thức không nhỏ, nó khiến cho các em HS có thể có thái độ cô lập hay tẩy chay người bạn tự kỷ của mình. Tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể bộ phận những người tự kỷ, thì số người dính vào tội phạm là rất nhỏ, Nếu người tự kỷ nào đó có ra tay làm gì thì có thể là họ cảm thấy khó chịu hoặc bị kích động quá mức, chứ không nhất thiết là từ động cơ đen tối.

    Cũng xuất phát từ việc cho rằng người tự kỷ không cảm nhận được hay thể hiện bất kỳ một cảm xúc nào, nên họ sẽ không thể hiểu được cảm xúc của người khác. Nhưng thực ra, người tự kỷ vẫn có những cảm xúc và cảm nhận về cảm xúc nhưng theo một cách khác mà thôi. Vì vậy, họ có thể không phát hiện được nỗi buồn của người khác qua việc trò chuyện hay sự mỉa mai trong câu nói theo kiểu “ nói vậy mà không phải vậy” Nhưng nếu cảm xúc được truyền đạt một cách cụ thể và rõ ràng thì người tự kỷ có rất nhiều khả năng để cảm nhận được điều đó.

    Cuối cùng, có nhiều bậc phụ huynh khi con mình bị “chẩn đoán” là Tự kỷ thì thường có cảm giác như nhận một bản án chung thân và hoàn toàn mất phương hướng về việc can thiệp cho con mình. Với thì giờ hạn hẹp có thể giành cho con và với những “kiến thức – kỹ năng” hạn chế, họ cho rằng mình không thể làm gì và điều cần làm là phải tìm ra một phương pháp thần kỳ nào đó, với những chuyên gia giầu kinh nghiệm. Đó sẽ là lời giải, vì thế họ không tiếc công, tiếc của để tìm kiếm những phương pháp can thiệp, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít tiền đến cực kỳ tốn kém, thậm chí có thể cho con ra “điều trị” ở nước ngoài. Họ không nghĩ rằng, điều mà đứa trẻ cần nhất chính là khả năng giao tiếp, và chính họ là người mà đứa trẻ cần thiết lập được khả năng giao tiếp đầu tiên để từ đó, qua họ như một chiếc cầu nối trẻ với thế giới bên ngoài, đứa trẻ mới dần dần mới có thể “ mở cửa” phá bỏ tình trạng “ bế quan, tỏa cảng” về mặt tâm lý của mình để từng bước một hòa nhập với thế giới bên ngoài, không phải với những phương cách bình thường, mà là những cách thức giao tiếp của một người tự kỷ.

    Nói cách khác trẻ tự kỷ được can thiệp tại gia đình, vẫn là trẻ tự kỷ nhưng đó là một đứa trẻ có khả năng giao tiếp và học tập theo cách thức của chính nó, đê có thể phát triển chứ không phải đó là một đứa trẻ đã được “cứu vớt” hay “điểu trị” để “quay về” hay “trở lại thiên đường” của những kẻ bình thường trong vòng tay người mẹ.

    Ngoài những ngộ nhận về tình trạng và nguyên nhân, hiện nay còn có những ngộ nhận mà ta có thể gọi là cố tình, đến từ những đơn vi kinh doanh, sản xuất các loại thực phẩm chức năng chiết xuất từ các loại thảo dược như Đinh lăng, Chùm ngây.  Họ lập luận với nhiều chứng cơ khoa học, do một số nhà nghiên cứu được họ trả tiền để giới thiệu.

     

    CHA MẸ PHẢI LÀM GÌ ?

    Như đã nói trên, việc chẩn đoán và phát hiện sớm tình trạng tự kỷ ở trẻ là hết sức quan trọng, các phụ huynh có thể xem xét các dấu hiệu để phát hiện tình trạng của con em mình, nhưng để đánh giá một cách hiệu quả là nên đưa trẻ đến các trung tâm, hòng khám có uy tín với những chuyên gia tâm lý có đủ kiến thức và kinh nhiệm để nhận ra các tình trạng và mức độ khác nhau của mỗi trẻ.

    Việc chẩn đoán là cần thiết nhưng việc phải có một kế hoạch can thiệp lâu dài cho trẻ mới là điều quan trọng. Một chương trình can thiệp không nhất thiết là phải tiến hành tại các trung tâm điều trị tâm lý hay các trường chuyên biệt, mà ngay tại nhà của các em và người thầy tốt nhất cho các em không ai khác, chính là bố mẹ của trẻ tự kỷ. Như vậy, nếu đã có chương trình can thiệp tại gia đình, thì việc đưa trẻ đến các trường bình thường có phải là điều không cần thiết ?

    Thực ra, khi trẻ tự kỷ đã có được một số kỹ năng nhất định, thì việc cho trẻ đến trường là điều hữu ích, nó giúp cho các em có cơ hội “thực hành” những điều đã được bố mẹ tập luyện tại gia đình. Điều này có vẻ như ngược lại với trẻ bình thường, khi các em đến trường để tiếp thu kiến thức, và khi về nhà thì bố mẹ sẽ đánh giá hay ôn lại cho các em. Còn trẻ tự kỷ thì lại được bố mẹ “dạy” ở nhà để đến trường, khi chơi với các trẻ khác, các em sẽ từ từ vận dụng những gì mình đã được học đi học lại nhiều lần ở nhà.

    Tuy nhiên, việc thay đổi hành vi nhận thức của trẻ tự kỷ là điều không thể, vì thế việc cho các em hội nhập tham gia các hoạt động chỉ là yếu tố để các em được cư xử như một trẻ bình thường , dĩ nhiên là với một cách thức riêng theo kiểu của các em. Chúng ta không buộc trẻ Tự kỷ phải trở thành bình thường, hay có những ứng xử bình thường, mà chúng ta hãy đối xử với các em một cách bình thường, tạo cơ hội cho các em có thể chơi đùa với các trẻ em xung quanh, tham gia các hoạt động trong khả năng cho phép. Đó mới gọi là sự hội nhập một cách có ý nghĩa và giá trị nhất đối với trẻ tự kỷ.

    Để xây dựng một chương trình can thiệp với trẻ Tự Kỷ không phải là điều dễ dàng. Nhìn chung, sự can thiệp cho trẻ cần lưu ý đến các yếu tố :

    • Khả năng can thiệp sớm ngay sau khi phát hiện và đánh giá được mức độ khó khăn của trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên.
    • Khả năng phối hợp giữa nhà chuyên môn, giáo viên và phụ huynh mà trong đó phụ huynh đóng vai trò chính yếu. Đây là yếu tố quyết định cho hiệu quả của chương trình can thiệp bao gồm can thiệp tại gia đình và can thiệp với một số phương pháp và kỹ thuật khác nhau tại các cơ sở, trung tâm.
    • Khả năng cá biệt hóa, mỗi trẻ là một tình trạng là một mức độ và có những môi trường sống khác nhau. Vì thế mỗi em phải có một chương trình giáo dục cá nhân.

    Can thiệp sớm:

    Can thiệp sớm là sự hướng dẫn sớm (mang tính giáo dục) cho trẻ và gia đình trẻ. Can thiệp sớm trong 5 năm đầu có thể làm tăng chất lượng cuộc sống cho trẻ và gia đình trẻ. Đây chính là sự chuẩn bị quan trọng cho việc cải thiện các năng lực và nhận thức giúp cho trẻ hội nhập.

     

    Chương trình Can thiệp sớm giúp cho đứa trẻ phát triển :

    1. Khả năng di chuyển, vận động, nhìn và nghe.(Thể chất)
    2. Khả năng nhận thức và tiếp thu (tri thức)
    3. Khả năng hiểu lời, nói ra và diễn tả (Ngôn ngữ )
    4. Khả năng tiếp xúc và chấp nhận người khác (Quan hệ)
    5. Khả năng tự phục vụ (ăn, uống, tắm) và tự giúp mình (Thích ứng)

     

    Chương trình Can Thiệp sớm sẽ giúp gì cho phụ huynh:

    • Giúp giải đáp những thắc mắc của PH về những vấn đề trong sự phát triển của trẻ
    • Giúp PH hiểu và gần gũi với trẻ đúng mức và hợp lý hơn
    • Cải thiện tình trạng phát triển của trẻ
    • Giúp ngăn ngừa tình trạng rối nhiễu gia tăng theo thời gian.
    • Giúp trẻ có thể hội nhập vào trường lớp ( nếu can thiệp trước 3 tuổi )

    Chương trình Can thiệp sớm gồm những hoạt động gì ?

    Tùy theo tình trạng của đứa trẻ thông qua chẩn đoán , cần phải có các hoạt động sau:

    1. Hoạt động tư vấn chẩn đoán : là một hoạt động tầm soát nhằm đánh giá khả năng phát triển của trẻ – nhận ra các yêu tố nguy cơ và thuận lợi về tình trạng của trẻ, từ đó phụ huynh sẽ được tư vấn về các biện pháp can thiệp hay trị liệu cho con mình.
    2. Hoạt động huấn luyện phụ huynh: Tùy theo yêu cầu của phụ huynh –chuyên viên tâm lý sẽ chẩn đoán và xây dựng một chương trình can thiệp cho trẻ tại gia đình. Phụ huynh sẽ được hướng dẫn thưc hiện kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ để từng bước giúp trẻ phát triển theo yêu cầu.
    3. Hoạt động Can thiệp- Trị liệu: Đây là hoạt động thực hiện trong một khoản thời gian nhất định ( Tùy theo điều kiện thực tế ) để giúp phụ huynh nắm vững những kỹ năng và kiến thức trong quá trình áp dụng chương trình chăm sóc/ giáo dục/ can thiệp cho trẻ một cách thích hợp với tình trạng của trẻ và hoàn cảnh gia đình.  Hoạt động can thiệp có thể diễn ra dưới 3 hình thức :
      – Can thiệp tại một cơ sở giáo dục chuyên biệt, dành cho những em có mức độ rối nhiễu nặng , nhưng vẫn cần sự chăm sóc hợp lý của phụ huynh tại gia đình.
      – Can thiệp theo giờ tại cơ sở hay bởi một giáo viên tại gia đình , dành cho những trẻ ở mức độ trung bình nặng và trung bình. Hoạt động này cần có sự phối hợp tích cực với 3 vai trò : Giáo viên – Phụ huynh và Chuyên viên.
      – Trẻ đi học bình thường và phụ huynh hay giáo viên can thiệp thêm tại gia đình, dành cho mức độ nhẹ.

    Trong phần can thiệp, có nhiều phương pháp khác nhau, tùy theo tình trạng, mức độ và điều kiện môi trường mà chuyên viên, giáo viên và phụ huynh có thể đưa vào các phương pháp thích hợp, chứ không nên dựa vào hoàn toàn một phương pháp đặc thù nào.

     

    Chương trình Can thiệp – trị liệu bao gồm :

    • Phần Chẩn đoán tình trạng – khả năng phát triển của trẻ : Phần này do chuyên viên tâm lý sau khi thăm khám cung cấp cho phụ huynh.
    • Với sự hợp tác của phụ huynh, sẽ có phần liệt kê các nguyên tắc, kỹ thuật dành cho trẻ và cả những thông tin về khả năng phát triển của trẻ.
    • Các bài tập mà phụ huynh và giáo viên sẽ thực hiện cho trẻ
    • Một Lịch hoạt động hàng ngày được phụ huynh xây dựng tùy theo khả năng phát triển của trẻ ( phù hợp với điều kiện thực tế tại gia đình )
    • Những kế hoạch hàng tuần để vạch ra mục tiêu cụ thể cho sự can thiệp giáo dục do phụ huynh đưa ra, sau đó nếu cần thiết sẽ có sự góp ý của chuyên viên.

    Chương trình Can thiệp trị liệu là một tiến trình kéo dài liên tục, mang tính phối hợp ưu thế của các phương pháp can thiệp khác nhau,  dựa trên các nhu cầu và năng lực của trẻ . Điều đó có nghĩa là nó có thể thay đổi dựa trên  sự tiến bộ hoặc trì trệ của trẻ. Do đó Chương trình Can thiệp – trị liệu  phải được giáo viên – phụ huynh theo dõi và vận dụng thường xuyên, ít nhất 3 – 6 tháng và có thể điều chỉnh, sửa đối với sự góp ý của chuyên viên tâm lý.

    Bên cạnh các hoạt động can thiệp do Giáo viên đặc biệt phụ trách,  tùy theo tình trạng và mức độ của trẻ, với sự tư vấn của chuyên viên tâm lý, phụ huynh có thể cho các em tham gia thêm các hoạt động sau

    • Hoạt động âm ngữ trị liệu :Dành cho các em có khó khăn về ngôn ngữ nói , cách phát âm, diễn đạt . Chuyên viên âm ngữ hay phụ huynh được huấn luyện bài bản về các kỹ thuật ( Phương pháp “ More Than  Words” – Nhiều hơn lời nói hay Pecs – Picture Exchange Communication System : Hệ thống giao tiếp thông qua trao đổi bằng hình ảnh ) hoặc  AAC – Hệ thống giao tiếp tăng cường và thay thế. ) Các kỹ thuật này là những phương pháp giúp trẻ hình thành ngôn ngữ nhưng không phải là một chương trình can thiệp riêng biệt.
    • Hoạt động Tâm vận Động : Đây là một kỹ thuật đặc thù không chỉ đơn thuần là giúp trẻ phát triển về khả năng vận động thô và tinh, mà còn là một liệu pháp tâm lý giúp trẻ tái tạo lại khả năng làm chủ cơ thể, giải tỏa những ức chế, những lo lắng căng thẳng trong đời sống tâm lý của các em . Phương pháp này hiện nay chưa được phổ biến sâu rộng và cũng chưa có nhiều chuyên viên được đào tạo bài bản, mà nó lại có những biến tướng, thường bị nhầm lẫn với các kỹ thuật Hoạt động vận động trị liệu, chủ yếu dành cho trẻ bại não. Ngoài ra, nhiều giáo viên chỉ có những khái niệm sơ cấp về tâm vận động, cũng thường dùng nó như một cách để xây dựng uy tín cho cơ sở can thiệp của mình, khi nói rằng họ có một Phòng can thiệp tâm vận động.

    KẾT LUẬN

    Tiến trình phát hiện – chẩn đoán – Can thiệp – Trị liệu và hòa nhập trẻ tự kỷ có thể nói là một hành trình gian nan, chưa có hồi kết mà lại có quá nhiều những hiểu biết sai lầm , không chỉ đến từ các phụ huynh mà còn ở cả những nhà chuyên môn, cả những kẻ kinh doanh và cả giới truyền thông, với những cách gọi, cách nghĩ và cách quảng bá lệch lạc, thiếu sót, thậm chí là phản khoa học, đã gây nhiễu loạn cho cộng đồng các gia đình có con tự kỷ.

    Cho đến nay, thì cuộc chiến giữa cái đúng – cái sai, cái thật – cái giả để xác định thế nào là tự kỷ, thế nào là những biện pháp, kỹ thuật can thiệp hiệu quả vẫn còn tiếp diễn một cách thầm lặng nhưng không kém phần quyết liệt để có thể đem lại những giá trị đích thật cho các “ thiên thần bất hạnh” này.

    CVTL LÊ KHANH .

    Cố vấn chuyên môn KIDSTIME ( Hà Nội )

  • CHĂM SÓC VÀ THẤU HIỂU

    CHĂM SÓC VÀ THẤU HIỂU

    CHỨNG TỰ KỶ NGÀY CÀNG GIA TĂNG ?

    Hiện nay, cũng có một nỗi lo trong người dân, khi nhiều bậc cha mẹ không có thì giờ chăm sóc con hay môi trường quá ô nhiễm, đã làm cho tình trạng tự kỷ bùng nổ. Thế nhưng trên thực tế thì “ những tình trạng này không phải là đang lan rộng hơn, mà chỉ là do người ta có sự hiểu biết và phát hiện tình trạng này nhiều hơn mà thôi” . Bs Bod Marion , Giám đốc trung tâm đánh giá và tái hòa nhập cho trẻ em thuộc trường cao đẳng Y khoa Albert Einstein College of Medicine ở New York nói.

    Trên thế giới, tỷ lệ trẻ được phát hiện và chẩn đoán tự kỷ tăng một cách đáng kể, trong 20 năm qua tỉ lệ tăng 8-10 lần. Tại Mỹ, tỷ lệ tự kỷ năm 2013 là 1/50, tăng 30% so với năm 2012 (1/88) và trở thành một trong ba vấn đề sức khỏe nghiêm trọng sau bệnh tim mạch và ung thư .

    Ở Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XXI, hội chứng tự kỷ mới được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có con số nghiên cứu chính thức về số lượng trẻ có hội chứng rối loạn phổ tự kỷ. Nghiên cứu mô hình khuyết tật ở trẻ em của Khoa Phục hồi Chức năng Bệnh viện Nhi Trung ương giai đoạn 2000-2007 cho thấy số lượng trẻ được chẩn đoán và điều trị tự kỷ ngày càng nhiều. Số lượng trẻ có hội chứng rối loạn phổ tự kỷ đến khám năm 2007 tăng gấp 50 lần so với năm 2000; xu thế có tình trạng tự kỷ tăng nhanh từ 122% đến 268% trong giai đoạn 2004-2007 so với năm 2000.

    Đối với các bậc phụ huynh thì điều quan trọng không phải là sự phân loại các rối nhiễu, hay chẩn đoán chỉ để biết , mà là đánh giá được mức độ nặng nhẹ của tình trạng này. Vì ở mức độ nhẹ, nếu được can thiệp sớm với những biện pháp hợp lý để thay đổi hành vi và gia tăng khả năng giao tiếp của trẻ thì các em có thể phát triển gần như trẻ bình thường. Nhưng với các trường hợp nặng hay có kèm theo tình trạng chậm khôn thì chỉ có thể giúp cho trẻ được ổn định và biết cách giao tiếp hơn mà thôi. Tuy nhiên, ở mức độ nhẹ thì lại thường chỉ phát hiện khi các em đi học ở mẫu giáo, thậm chí là tiểu học. Trong khi ở các trường hợp nặng, thì lại được phát hiện sớm hơn, ngay từ khi các em được 12 – 18 tháng tuổi. Vì thế, ngay từ khi sinh ra cho đến khi được 8 tháng tuổi, thì cha mẹ nên chú ý đến các hành vi giao tiếp và khả năng phát âm của trẻ, hầu có thể tìm kiếm các dấu hiệu nguy cơ nơi con em mình, từ đó qua sự chẩn đoán và hướng dẫn của các nhà chuyên môn, thực hiện các biện pháp can thiệp tại gia đình một cách tích cực và thường xuyên, giúp trẻ giảm thiểu đến mức thấp nhất tình trạng tự kỷ nếu có.

     TỰ KỶ CÓ THỂ CHỮA KHỎI ?

    Như đã nói ngay từ đầu là cho đến nay thì khoa học vẫn chưa tìm ra một loại thuốc hay một phương pháp trị liệu nào có thể “điếu trị” hoàn toàn chứng Tự kỷ. Một số phụ huynh tin rằng với chế độ ăn đặc biệt, thuốc và các biện pháp can thiệp hành vi đã chữa khỏi chứng tự kỷ của con họ, nhưng các phụ huynh khác thử cùng chế độ can thiệp đó thì lại không thấy có kết quả. Có nhiều phương pháp điều trị được lập ra để cải thiện khả năng của người tự kỷ, nhưng chưa ai biết đến cách chữa hoàn toàn tình trạng tự kỷ.

    “Chúng ta biết là nếu can thiệp sớm cho trẻ và dùng phương pháp ABA thì chúng ta có thể cải thiện chức năng của trẻ,” một chuyên gia tâm lý là ông Marion đã nói. Phân tích hành vi ứng dụng, hay còn gọi là ABA, là một hình thức can thiệp mà trong đó có các hoạt động lặp đi lặp lại để cải thiện chức năng giao lưu và thể chất cho trẻ.

    Nhưng theo Marion, không hề có một phương cách chữa trị khỏi hẳn tình trạng tự kỷ, và còn phụ thuộc vào đánh giá của từng chuyên viên xem phương pháp trị liệu đó có đem lại lợi ích lớn nhất cho trẻ tự kỷ hay không. Với một vài ca, Marion nói, hành vi, trong đó có giao tiếp mắt và tương tác với người khác, phát triển kỹ năng ngôn ngữ, sẽ cải thiện đáng kể — nhưng những rối loạn sinh học tiềm ẩn sẽ không thể thay đổi được. “Và đó hoàn toàn không thể gọi là một cách chữa bệnh được,” ông nói.

    Thông thường, khi thấy trẻ có những dấu hiệu bất thường về hành vi và ngôn ngữ, điều lo lắng nhất của phụ huynh là con mình có bị tự kỷ hay không, mà không nghĩ rằng những rối nhiễu tâm lý khác như tình trạng chậm khôn, hay hội chứng rối loạn hiếu động kém chú ý ( ADHD) đây cũng là những vấn đề nan giải không kém gì tự kỷ. Tất cả đều cần có sự can thiệp một cách hợp lý, kiên trì và lâu dài tại gia đình. Điều quan trọng là đánh giá được mức độ nặng – nhẹ để có những biện pháp phù hợp.

    Đối với trẻ tự kỷ ở mức độ nhẹ thì ngoài những biện pháp can thiệp cần thiết tại gia đình qua một chương trình can thiệp sớm, thì các em vẫn nên được tham gia các lớp mẫu giáo bình thường. Đây là một yếu tố quan trọng giúp cho các em gia tăng khả năng bắt chước và các mối quan hệ với các trẻ bình thường khác. Đối với trẻ tự kỷ trung bình thì một hệ thống các lớp hội nhập là điều hết sức cần thiết, ở đây ngoài những bài tập phù hợp với tình trạng của các em, do các giáo viên có chuyên môn về giáo dục đặc biệt đảm trách, thì các em vẫn có điều kiện tham gia các hoạt động với các trẻ em bình thường khác. Dĩ nhiên là một chương trình can thiệp tại gia đình do cha me hay có sự phối hợp với một giáo viên, một chuyên viên tâm lý là điều quan trọng. Điều này không chỉ áp dụng cho trẻ tự kỷ mà các rối loạn khác cũng cần như vậy.

    Chỉ với các em tự kỷ nặng, chúng ta mới cần có một chương trình can thiệp tại các trường chuyên biệt, điều quan trọng là phải đến chú ý chất lượng và năng lực của các giáo viên / nhân viên của trường này.

    Cho đến nay, các trẻ Tự kỷ hay ADHD vẫn được theo học trong hệ thống trường chuyên biệt dành cho mọi chứng rối nhiễu tâm lý . Điều này chỉ có thể chấp nhận nếu trong các trường này có sự phân chia rõ ràng các lớp dành cho trẻ tự kỷ với các lớp dành cho trẻ ADHD hay cho trẻ Chậm khôn, vì 3 dạng trẻ này cần được theo học với những giáo trình khác nhau. Hiện nay, cũng có một vài trường chuyên biệt dành cho trẻ tự kỷ, vấn đề còn lại là nội dung chương trình và chi phí mà gia đình phải bỏ ra vì rõ ràng một ngôi trường tốt thì không thể có học phí rẻ, nhưng vẫn có những trường chưa tốt, mà học phí lại không rẻ chút nào! Đó là vấn đề mà phụ huynh cần phải nhận ra.

    Nhưng điều quan trọng nhất là dù ở bất kỳ cấp độ nào, sự tham gia của phụ huynh, hay những biện pháp áp dụng tại gia đình mới là điều quan trọng giúp trẻ tự kỷ có thể ổn định và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cần loại trừ những biện pháp hướng dẫn cho phụ huynh với một chi phí quá cao, vì thực chất giá trị của các biện pháp là sự kiên nhẫn, chừng mực và lâu dài cùng với tấm lòng của phụ huynh là những thứ không thể mua được với bất cứ giá nào. Còn các kỹ thuật, các công cụ, các nguyên tắc, hay giáo án chỉ là những thứ phụ thuộc và có rất nhiều cách khác nhau. Điều quan trọng là các phương pháp đó có phù hợp với tình trạng của con mình hay không, điều này chỉ có được sau những quan sát, chẩn đoán trực tiếp của các chuyên viên với đứa trẻ, để từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp với một chi phí vừa phải.

    Trong một cuộc hội thảo quốc tế về tâm lý học đường năm 2016 tại Đà Nẵng, có một báo cáo về lĩnh vực sức khỏe tâm thần với nội dung là khảo sát sự quan tâm của người dân về các loại bệnh trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần.  Kết quả là 3 loại bệnh được sự quan tâm nhất là : Trầm cảm – Tự kỷ  và Tâm thần phân liệt. Điều này cho thấy, quan điểm cho rằng Tự kỷ là một loại “bệnh tâm thần” vẫn là điều khá phổ biến dù cho đã biết bao nhiêu thông tin từ các chuyên viên đề nghị không xem tự kỷ là một căn bệnh mà là một hội chứng rối loạn phát triển lan tỏa ( sách DSM IV –TR năm 2000 ) Còn sách DSM – V ( 2013 ) thì lại xem tự kỷ là những rối loạn – suy kém trong giao tiếp xã hội.

    Nghiên cứu cho thấy có từ 75-88% trẻ Tự kỷ đã bộc lộ những rối loạn trong 2 năm đầu đời và có 31-55% biểu hiện triệu chứng trong năm đầu tiên ( Young&Brewer 2002). Như vậy có đến gần một nửa trẻ tự kỷ được chẩn đoán phát hiện trong năm đầu tiên của cuộc sống. Trong khi các chứng bệnh về tâm thần như trầm cảm và Tâm thần phân liệt là những bệnh do các yếu tố bên ngoài tác động vào trẻ khi trẻ đã có nhận thức, khiến cho một trẻ bình thường trở nên rối loạn tâm thần và có thể điều trị bằng thuốc cùng các trị liệu tâm lý cho đến khi khỏi bệnh.

    Đến nay đã có hàng loạt các cơ sở “khám chữa bệnh” hay các thầy thuốc, lang y  cố gắng gán ghép việc điều trị bằng phương pháp của mình cho các trẻ “ mắc bệnh” Tự kỷ , giúp các bé có thể  “khỏi bệnh” trở về với cuộc sống bình thường” để “ hội nhập với xã hội”. Chúng ta nên hiểu như thế nào ?

    Một trong các quốc gia có tỷ lệ trẻ tự kỷ vào hàng cao nhất thế giới là Mỹ , với tỷ lệ 1/68 trẻ ! thì tại sao cả một hệ thống các phòng thí nghiệm, các cơ sở dược phẩm và các nhà Y khoa hàng đầu trong hàng chục năm vừa qua, lại không lao đầu vào việc nghiên cứu để bào chế ra một loại thuốc hay một phương pháp trị liệu hiệu quả ? bởi vì họ hiểu điều đó là vô ích.  Do đó họ chỉ tập trung công sức vào việc hình thành các phương pháp can thiệp qua giáo dục để giúp trẻ tự kỷ phát triển khả năng giao tiếp, học tập và lớn lên với chứng tự kỷ của mình ! Thậm chí là sau hàng loạt các phương pháp ra đời , có những phương pháp thống trị hàng chục năm đã giúp cho cả trăm ngàn trẻ tiến bộ, thì cho đến nay người ta vẫn thấy cần phải có một biện pháp phối hợp giữa các phương pháp mới có thể đem lại những hiệu quả tốt hơn. Đến nay, người ta đã đưa ra được 27 liệu pháp được xem là có cơ sở khoa học ! Vậy thì sẽ chọn cái gì để dạy hay là tìm cách dạy trẻ hết các phương pháp trên cho chắc ăn?

    Đồng thời với một hệ thống đào tạo bài bản, cung cấp cho xã hội hàng loạt các chuyên viên trong các chuyên ngành, từ Vật lý trị liệu, hoạt động trị liệu, hành vi tri liệu, âm ngữ trị liệu … cho đến các giáo viên giáo dục đặc biệt được đào tạo bài bản, người ta vẫn không thể phủ nhận vai trò quan trọng trong khuôn khổ một chương trình trị liệu, đó chính là năng lực và sự tác động của phụ huynh trên hành vi của trẻ,  hay nói cách khác thì phụ huynh mới chính là chuyên viên và giáo viên tốt nhất cho con mình. Vậy thì đưa con đến giáo viên và nhà trường chuyên biệt hay phụ huynh sẽ đứng ra tự xử ?

    Nếu thế thì một phụ huynh có thể tham gia một số khóa học huấn luyện về một phương pháp hay một kỹ thuật nào đó, có thể qua tận Mỹ để học trực tiếp. Sau đó quay về và mở lớp huấn luyện lại các kỹ thuật mà mình đã học ? Điều này có vẻ hợp lý, vì sau khi học thì họ sẽ về để áp dụng lên chính con mình, đem lại một số kết quả nhất định. Với kết quả đó, họ hoàn toàn có thể dạy lại các phụ huynh khác, chỉ với một điều kiện quan trọng là tình trạng của con họ giống như tình trạng của các trẻ khác ! Nhưng đáng tiếc là trên thực tế thì chưa hề có một trẻ tự kỷ nào có một tình trạng rối loạn giống với một trẻ khác, mặc dù là các biểu hiện đều có vẻ giống nhau . Nó cũng như các dấu vân tay, trông thì có vẻ giống nhau, và chỉ có 4 kiểu vân tay chính, thế nhưng với dân số là trên 7 tỷ người trên trái đất, ở mọi châu lục,  hầu như chưa có hai người có các vân tay giống hệt nhau ! Như vậy, áp dụng cùng 1 phương pháp với những kỹ thuật giống nhau để trị liệu cho những tình trạng, mức độ khác nhau, thì hiệu quả chỉ là hên xui, và cái giá để có sự hên xui thì lại không hề rẻ !

    Như vậy nếu chúng ta quyết giữ nhận thức, gọi  Tự kỷ là một chứng bệnh , để suy ra là có thể “điều trị” bằng một hay vài phương pháp nào đó, và khi thấy một phụ huynh đã “ chữa được” cho con mình  ( không biết chắc có phải tự kỷ hay không ? ) để đem con “trở lại thiên đường” như các trẻ bình thường, thì cho rằng họ có thể dạy lại cho các phụ huynh khác để các phụ huynh này mang những kỹ thuật đó về áp đặt lên con mình , rồi mong mỏi con mình cũng  có thể hết bệnh, trở lại với cuộc sống bình thường , có thể đi học hòa nhập với áo trắng quần xanh và chiếc cặp trên tay, liệu có phải là biện pháp tốt nhất ? Hay chỉ khiến cho trẻ phải ngồi trong một lớp học và cô đơn giữa một đám trẻ cùng trang lứa ?

    Một ước mơ đơn giản đẹp đẽ và hợp tình hợp lý!  vì thế mặc cho một số nhà chuyên môn, và cả một số phụ huynh, giáo viên có ý thức vẫn khản cổ kêu gọi đừng gọi tự kỷ là một chứng bệnh, hay khi chẩn đoán dù có thể cẩn thận ghi là “một chứng bệnh không chữa được”! Nhưng vẫn hình thành trong tâm thức của các bậc cha mẹ… Ừ thì bây giờ không chữa được, nhưng đã gọi đó là bệnh thì tất yếu là sẽ phải tìm ra phương thuốc! Ngay cả như cái căn bệnh thế kỷ là HIV mà còn ngăn chặn được kia mà ? Đúng là bệnh thì trước sau gì cũng có thể chữa được ! Nhưng chữa được bệnh này thì lại lòi ra bệnh khác. Còn hội chứng tự kỷ thì ngày càng có nhiều trẻ “bước vào” mà người “bước ra” thì hầu như là một thiểu số, lắm khi nếu xem lại, đánh giá và chẩn đoán một cách cẩn thận thì đó lại không phải tự kỷ, mà trẻ chỉ có một số triệu chứng giống như tự kỷ ! Vì thế có thể “chữa được”! Còn trẻ Tự kỷ thực sự thì “chưa thấy ra” !.

    Nói tới nói lui, rốt cuộc là bó tay sao ? Không – vấn đề là cách nhìn nhận và các liệu pháp tác động ! Có thể nói, điều chính yếu là phải có sự chẩn đoán xác định, sau đó là cần các yếu tố sau:

    • Một sự tìm hiểu quan sát cẩn thận một cách toàn diện trẻ để tìm ra những đặc điểm thuận lợi và khó khăn của trẻ , từ đó rút ra các biện pháp tác động phù hợp với chính trẻ ấy.
    • Một sự chấp nhận vô điều kiện các khó khăn của con mình, không tìm cách cắt đứt các hành vi rối loạn của trẻ mà hãy tìm hiểu tại sao trẻ lại làm như vậy, để tìm cách nâng đỡ, chuyển hóa cái nguyên nhân gây ra các điều đó, giúp trẻ có sự thoải mái, vui vẻ để không còn phải có những rối loạn vì lo lắng đó nữa. Điều này cần thời gian, sự kiên nhẫn và cảm thông.
    • Một môi trường sống an toàn mà trong đó trẻ được làm các điều mình thích, được khuyến khích phát triển các kỹ năng cá nhân để hình thành lòng tự tin, nhu cầu tương tác. Chính các hoạt động thường ngày tại gia đình mà ta có thể gọi đó là phương pháp “việc nhà trị liệu” sẽ là nền tảng cho một nhu cầu giao tiếp sẽ từng bước hình thành trong tâm lý trẻ.

    Như vậy một đứa trẻ “ở cõi trên” có thể từng bước “đi vào” không phải là ngôi trường học để học những luật lệ giáo điều, mà là bước vào một không gian sống của các em. Một môi trường mà các em được :

    • Thấu hiểu mọi khó khăn, nâng đỡ mọi năng lực, khuyến khích mọi sở thích.
    • Chấp nhận mọi hành vi, tôn trọng mọi thái độ, hướng dẫn mọi kỹ năng.

    Bao giờ các em được xem là một “con người tự kỷ” và chúng ta sẽ giúp cho các em không phải nỗ lực leo lên từng bậc thang để phải cố “vói lên” trên bước đường học tập. Mà đó là sự “ bước xuống” của người dạy nắm lấy tay của các em để cùng “ đồng hành” với sự tôn trọng. Thì chừng đó, chứng tự kỷ sẽ không còn là một nỗi ám ảnh khủng khiếp, không còn là một căn bệnh “chữa hoài không khỏi” mà bố mẹ có thể phải bán cả nhà đi để điều trị cho con. Bởi vì đó chỉ là một đứa trẻ “đặc biệt” khác ta !

    Cha mẹ thay vì tốn cả trăm triệu hay cả tỷ đồng để cố gắng “biến đổi” “sửa chữa” “điều trị” bằng đủ loại phương pháp “trời ơi đất hỡi” cho một điều không thể, thì hãy đầu tư một môi trường thoải mái, một không gian sống  tích cực cho các em, tại chính ngôi nhà của mình và hãy đưa các em đến sân chơi của các em chứ không phải là của người lớn với những khuôn mẫu và luật lệ,  bắt đầu với chữ “không được” và “phải làm”. Đó sẽ là nơi các em “cho phép” người lớn có thể chơi với mình qua những thứ mà mình thích ! Từ đó sẽ tạo nên một mối tương giao lành mạnh. Chính các trò chơi một cách tự do sẽ thúc đẩy mọi nhu cầu phát triển của trẻ để từng bước các em sẽ biết “cách chơi”,  và sẽ dạy phụ huynh “cách chơi” để mọi người đều hiểu “luật chơi” rôi cùng chơi với nhau, từ đó sợi giây liê lạc nối kết giữa mẹ con sẽ tái tạo, và đó là nền tảng cho một kế hoạch can thiệp hiệu quả cho đứa con thân yêu của mình.

    CVTL. LÊ KHANH

  • TƯ KỶ LÀ GÌ

    TƯ KỶ LÀ GÌ

    Hội chứng Tự kỷ được dịch từ thuật ngữ “Autism Spectrum Disorders – ASD”, để chỉ một tình trạng rối nhiễu tâm lý gây ra những trở ngại trong quan hệ, giao tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của trẻ em. Tình trạng này dù đã có ngay từ khi mới sinh ra nhưng ít khi được phát hiện, cho đến khi những rối loạn giao tiếp bộc lộ lúc trẻ bước qua lứa tuổi thôi nôi, với những biểu hiện chậm về ngôn ngữ và có các hành vi kỳ lạ với nhiều mức độ nặng, nhẹ khác nhau. Hầu như không hề có hai trẻ tự kỷ giống hệt nhau về sự rối nhiễu, và các biện pháp can thiệp cũng phải dựa trên từng cá nhân,   vì thế cho đến nay vẫn có người còn mơ hồ về việc phải chăng là trẻ tự kỷ đã “mắc phải” hay “nhiễm bệnh” trong quá trình nuôi dưỡng hay đây là một tình trạng bẩm sinh ?

    Trong quá khứ, có thể đã có rất nhiều trẻ em và người lớn có các rối loạn kiểu tự kỷ trước khi tình trạng này đươc công nhận và đặt tên. Vì thế, trong các câu chuyện cổ xưa có nói đến những “tiên đồng” rất dễ thương đến từ trên trời ( quả thực là trẻ tự kỷ nhiều em trông rất dễ thương ) có những hành vi kỳ dị và ngôn ngữ khác thường.

    Trong tác phẩm “ Giải thích điều bí ẩn của hiện tượng tự kỷ”, tác giả là bà Uta Frith đã nêu lên một số thí dụ về các huyền thoại và sự tích về những con người có các biểu hiện của tình trạng tự kỷ. Tháng Giêng năm 1801, bác sĩ  Jean Marc Gaspar Itard Viện trưởng viện Câm -Điếc Paris (Pháp) đã chăm sóc một cậu bé hoang dã, được đặt tên là Victor, có những biểu hiện tiêu biểu cho tình trạng tự kỷ mà ông Harlan Lane, một chuyên viên ngôn ngữ đã tập hợp các bài viết của Bs Itard và đưa vào tác phẩm “ Cậu bé hoang dã ở Aveyron”.  Câu chuyện của Bs Itardd rất hấp dẫn, nhưng điều quan trọng hơn là ông đã kể lại những biện pháp chăm sóc cho Victor, điều mà ông đã truyền lại cho các học trò của mình là ông Edouard Selguin và bà Marie Montessorri, người đã hình thành nên một phương pháp giáo dục đặc biệt có ảnh hưởng và thịnh hành cho đến ngày nay.

    Như thế chúng ta thấy là tự kỷ đã có từ rất sớm trong lịch sử con người, nhưng chỉ được giới thiệu rải rác trong một số các nghiên cứu của các nhà khoa học như John Haslan (1890 ở Anh) Nhà tâm lý Lightner Witmer (1919 ở Mỹ) với những mô tả về hành vi tương tự nhau cho mãi đến khi Leo Kanner, một bác sĩ người Mỹ vào năm 1943, trong một bài báo với nhan đề “Autism Disturbance of Effective Contract”, hội chứng này được ông  mô tả một cách khoa học và rõ ràng. Ông đã chọn ra những đặc điểm quan trọng :

    • Thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt cảm xúc với người khác.
    • Có những thói quen hàng ngày mang tính rập khuôn
    • Ngôn ngữ hạn chế , thiếu từ, sai văn phạm hay không có ngôn ngữ.
    • Thích xoay chuyển vòng tròn các vật và thao tác khéo léo trong một số hành vi
    • Có kỹ năng cao về ý thức không gian, có trí nhớ vẹt và ghi nhớ theo kiểu “ chụp ảnh” ( chỉ nhớ hình ảnh , con số, các từ ngữ mà không hiểu nghĩa ) …
    • Bề ngoài có vẻ nhanh nhẹn thông minh, nhưng khi tiếp xúc là dễ dàng nhận thấy những hành vi và ngôn ngữ không phù hợp.

    Ông cho rằng tự kỷ là một chứng hiếm gặp ở trẻ em, thường xuất hiện sau hai tuổi rưỡi và coi đó là đối tượng điều trị của y học. . Tiếp sau đó, Hans Asperger (1994), bác sĩ người Áo cũng mô tả các triệu chứng tương tự gọi là “Tâm bệnh tự kỷ” mà về sau gọi là hội chứng Asperger. . Cuối những năm 50 của thế kỷ XX, quan niệm về hội chứng này có sự thay đổi. Bender (1959) mô tả tự kỷ không phải là khiếm khuyết lúc sơ sinh của hệ thống thần kinh trung ương, mà là một phản ứng bảo vệ, một rối loạn mà cơ thể không có khả năng bảo vệ từ những lo lắng quá mức. Bernard Rimland (1964) cho rằng nguyên nhân của tự kỷ là do những thay đổi của cấu trúc lưới trong bán cầu não trái. Trong những năm từ 1960 – 1970, các nghiên cứu tập trung vào giải thích bản chất của tự kỷ, các lý thuyết tập trung vào những rối loạn sinh hóa hay chuyển hóa ở đối tượng này. Quan niệm được nhiều chuyên gia y tế chấp nhận trong một thời gian dài, xem đó là một bệnh lý thần kinh kèm theo tổn thương chức năng của não. .

    – Theo từ điển bách khoa Columbia (1996): Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển có nguyên nhân từ những rối loạn thần kinh làm ảnh hưởng đến những chức năng cơ bản của não bộ. Tự kỷ được xác định bởi sự phát triển không bình thường về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tương tác xã hội và suy luận. Trẻ nam nhiều gấp 4 lần nữ giới Trẻ có thể phát triển bình thường đến 30 tháng tuổi sau đó gặp phải một số rối nhiễu trong phổ tự kỷ.

    – Năm 1999, tại Hội nghị toàn quốc về tự kỷ ở Mỹ, các chuyên gia cho rằng nên xếp tự kỷ vào nhóm các rối loạn lan tỏa và đã thống nhất đưa ra định nghĩa cuối cùng về tự kỷ như sau: Tự kỷ là một dạng rối loạn trong nhóm rối loạn phát triển lan tỏa, ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự phát triển nhưng ảnh hưởng nhiều nhất đến các kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội

    – Hiện nay, khái niệm tương đối đầy đủ và được sử dụng rộng rãi phổ biến nhất là khái niệm của tổ chức Y Tế Thế giới, đưa ra năm 2008, tự kỷ được định nghĩa một cách đầy đủ như sau: “Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển tồn tại suốt đời, thường được phát hiện trong 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do một loại rối loạn thần kinh ảnh hưởng đến chức năng của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra không biệt giới tính, giàu nghèo, chủng tộc hay địa vị xã hội. Tự kỷ được thể hiện qua các khiếm khuyết về tương tác xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, các hành vi, sở thích, hoạt động có tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại.”

    Đến nay, tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ theo DSM-V (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về các chứng rối loạn tâm thần) được chính thức phát hành vào tháng 5/2013 với một số điểm thay đổi trong quan điểm về tự kỳ nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và thực tiễn. Điểm nổi bật trong phiên bản này bao gồm :

    • Thay tên gọi rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (PDD NOS) bằng tên gọi rối loạn phổ tự kỷ (ASD),
    • Tên gọi ASD được gọi chung cho 5 loại rối loạn như trong phiên bản trước.
    • Xếp nhóm rối loạn về giao tiếp và tương tác xã hội làm một, theo đó sẽ có 2 nhóm tiêu chí chẩn đoán thay vì 3 như trong DSM-IV.
    • Các tiêu chí chẩn đoán được thu gọn hơn so với các phiên bản trước kia.

    Tiêu chí chẩn đoán tự kỷ theo DSM-V như sau:

    Phải có đủ các tiêu chí sau :

    1. Khiếm khuyết trầm trọng về giao tiếp xã hội và tương tác xã hội trong nhiều hoàn cảnh, không phải o tình trạng chậm phát triển trí tuệ với 3 dấu hiệu sau:

    – Khiếm khuyết về sự trao đổi cảm xúc – xã hội

    – Khiếm khuyết về hành vi giao tiếp không lời được sử dụng trong tương tác xã hội

    – Khiếm khuyết về khả năng phát triển và duy trì quan hệ phù hợp với mức độ phát triển (ngoại trừ người chăm sóc).

    1. Sự giới hạn, rập khuôn về hành vi, sở thích và hoạt động
    2. Những dấu hiệu trên phải được biểu hiện từ khi còn nhỏ (nhưng có thể không thể hiện hoàn toàn rõ nét cho tới khi vượt quá giới hạn).
    3. D. Những dấu hiệu phải cùng hạn chế và làm suy giảm chức năng hàng ngày.

    DẤU HIỆU NHẬN BIẾT SỚM TỰ KỶ

    Có thể nói, cho đến nay, hội chứng Tự Kỷ (Autistic Spectrum Disoder – ASD) vẫn còn là một trong những tình trạng rối nhiễu tâm lý phức tạp, khó xác định nguyên nhân chủ yếu và cũng khó xây dựng một kế hoạch trị liệu. có hiệu quả cao mang tính chuẩn mực chung, mà phải là những kế hoạch can thiệp cho từng cá nhân.

    Trước đây, người ta thường nghiêng về những rối loạn trong quan hệ giao tiếp để cho rằng, sự thiếu quan tâm hay xa cách của người mẹ lúc ấu thơ là nguyên nhân chính. Từ đó, các biện pháp trị liệu thường đặt trọng tâm vào việc yêu cầu phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc nhiều hơn, và điều này cũng đồng nghĩa với việc “lên án” những sai lầm trong mối tương tác không lành mạnh với trẻ của phụ huynh, tạo thêm nhiều đau buồn không cần thiết. Nhưng đó chỉ là một yếu tố có thể làm tăng nặng thêm tình trạng Tự Kỷ đã có mầm mống ngay từ khi trẻ sinh ra, do đó cần chú trọng nhiều hơn đến các yếu tố sinh học.

    Các yếu tố quan trọng cần phải lưu ý ngay từ nhỏ, đó là trẻ có những hoạt động giao tiếp không bình thường qua tiếng cười và tiếng khóc. Chúng ta biết rằng, trẻ sơ sinh giao tiếp với người mẹ và những người xung quanh thông qua :

    Tiếng cười : Còn gọi là tiếng cười xã hội – trẻ chỉ cười để đáp lại một nụ cười trên khuôn mặt vui vẻ của mẹ hay người thân .

    Tiếng khóc : Có nhiều nguyên nhân khiến trẻ khóc, và có nhiều loại tiếng khóc khác nhau, mà một người mẹ nhạy cảm, quan tâm đến con có thể nhận ra . Trẻ khóc vì đói, vì lạnh, vì nóng, vì đau, vì sợ và vì nhõng nhẽo.

    Thế nhưng với trẻ có nguy cơ tự kỷ thì trẻ hầu như không cười, hay chi cười vu vơ và cũng không khóc do các nguyên nhân trên, trẻ thường kêu khóc một cách vô cớ, có thể ngưng khóc hoặc khóc dai dẳng dù đã đáp ứng mọi sự chăm sóc cho trẻ.

    Như vậy, sự thiếu quan tâm chăm sóc không phải là nguyên nhân chính gây ra tình trạng tự kỷ, nhưng việc quan tâm chăm sóc con một cách hợp lý, có sự đầu tư bằng các kỹ năng cần thiết của bố mẹ trẻ, phối hợp một cách hài hòa việc giáo dục và trị liệu bằng tâm lý lại là một yêu cầu hết sức cần thiết  trong việc can thiệp cho trẻ tự kỷ.

    Tự kỷ là một hiện tượng rối loạn tâm lý và   thần kinh rất phức tạp, mang tính cá biệt rất cao, không có một trẻ Tự kỷ nào có tình trạng và khả năng giống nhau, dù chúng đều có những dấu hiệu chung. Cho đến nay, việc xác định nguyên nhân cũng còn là một điều tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhưng nói chung thì đa số đều chấp nhận một số các nguyên nhân sau:

    • Sự phát triển kém hay không phát triển của một số tế bào thần kinh trong khu vực giao tiếp, tạo ra những tế bào non vì thế đã không có được những đáp ứng và khả năng tiếp nhận các kỹ năng giao tiếp mà cụ thể nhất là khả năng hình thành và phát triển ngôn ngữ.
    • Những rối loạn hay những sang chấn tâm lý (căng thẳng, buồn phiền, lo âu, giận dữ) trong lúc mang thai của người mẹ.
    • Sự thiếu quan tâm chăm sóc và môi tương giao không đầy đủ của bố mẹ trong quá trình nuôi dưỡng và phát triển ở những năm đầu cũng có khả năng làm tăng nặng tình trạng tự kỷ.

    Trong đời thường, chúng ta căn cứ vào những biểu hiện khá rõ rệt mà bố mẹ có thể nhận ra để xác định tình trạng của trẻ:

    Cách ăn nói:

    • Ngôn ngữ phát triển hoặc chậm hay không phát triển chút nào
    • Cách dùng từ không có ý nghĩa
    • Dùng cử chỉ thay vì lời nói để diễn đạt ý tưởng
    • Khó chăm chú được lâu

    Phản Ứng Trong Cách Giao Tế:

    • Thích một mình hơn là chơi với trẻ khác
    • Không thích kết bạn
    • Ít tác động như cười hay nhìn thẳng mắt người khác

    Giác Quan Bị Hư Hại:
    Giác quan nhìn, nghe, sờ, ngửi  và nếm có thể rất nhạy cảm hay lại giảm sút. Đây là một yếu tố quan trọng mà nhiều người thường bỏ qua.

    Cách Chơi:

    • Thiếu tính tự phát hay tưởng tượng
    • Không bắt chước được người khác
    • Không tự chế biến trò chơi

    Thái Độ Cư Xử:

    • Có thể quá họat động hay quá thụ động
    • Dễ nổi cơn thịnh nộ mà không có lý do chính đáng.
    • Không biết tự ý bày trò chơi
    • Quá chú ý  vào một vật, ý tưởng, hành động hay một người nào.
    • Thiếu khả năng suy xét.
    • Có thể tỏ gây hấn với người hay chính mình.
    • Khó chấp nhận thay đổi trong lễ thói hằng ngày .

    Tuy nhiên, những dấu hiệu này chỉ cho biết là trẻ có tình trạng tự kỷ hay không, nhưng ở mức độ nào, nhẹ hay nặng và nên có những biện pháp ra sao thì cần phải có những chẩn đoán đanh giá tỉ mỉ, kỹ lưỡng của các nhà chuyên môn để sau đó, có thể đưa ra những liệu pháp phù hợp với tình trạng của trẻ.

    Do mỗi trẻ Tự kỷ lại có những khả năng tiếp thu và phát triển khác nhau, vì vậy những gì thích hợp cho trẻ này, chưa chắc đã thích hợp cho trẻ khác. Vì thế việc xây dựng một kế hoạch trị liệu phải dựa trên sự chẩn đoán kỹ càng và đưa ra một chương trình giáo dục cá nhân cho đứa trẻ đó mà thôi.

    Vì thế, việc phát hiện sớm là điều cần thiết, nhưng điều đó không có nghĩa là can thiệp sớm thì trẻ sẽ hồi phục sớm, sẽ “ thoát tự kỷ” sớm . Vì tình trạng mà ta gọi là “hồi phục” hay “ bình phục” , “thoát khỏi” là những danh từ không chính xác, rất dễ gây ngộ nhận giữa một tình trạng “trở lại trạng thái bình thường” của những trẻ có các chứng bệnh về cơ thể hay các rối nhiễu tâm lý nơi các trẻ vốn là trẻ bình thường với một tình trạng “tiến đến trạng thái gần như bình thường” của nhiều trẻ tự kỷ đã được can thiệp bằng những biện pháo giáo dục hợp lý và bài bản.

    HIÊU ĐÚNG VỀ TỰ KỶ

    Trong cuốn The Bigger Boat, Linda Dorey Simpson, một phụ huynh có con gặp khó khăn về mặt học tập (learning disability), đã tâm sự rằng bà từng đọc đủ loại sách vở về khuyết tật viết bởi những chuyên gia có bằng cấp tiến sỹ, và cả những cuốn sách viết bởi … những người mẹ hổ (tiger moms).  Bà nói, có những cuốn sách bà đọc, bà hiểu rất tường tận, nhưng cũng có những cuốn sách chỉ làm phí thời gian của bà, thậm chí có những cuốn sách, theo sự nhận định cá nhân, thật nguy hiểm vô cùng đối với người đọc.  Qua sự nghiên cứu về khuyết tật trên mạng, bà đã tìm thấy nhiều thông tin ngộp thở như sau ( Đây là các tài liệu bằng tiếng Anh ):

    • Sách viết về giáo dục trẻ khuyết tật            7,143 cuốn.
    • Sách viết về khuyết tật học tập 2,717 cuốn.
    • Về tự kỷ trên mạng             2,660,000 bài.
    • Về chương trình giáo dục đặc biệt trên mạng 4,700,000 bài.

    Theo bà Simpson, sự phong phú về những thông tin qua sách vở và qua mạng là điều đáng mừng cho phụ huynh, nhưng khó khăn nhất chính là … bà không biết những cuốn sách nào hoặc những bài viết nào trên mạng sẽ thật sự hữu ích cho phụ huynh có con em bị tự kỷ ! Điêu này càng đúng hơn so với những đất nước mà hệ thống truyền thông vẫn còn có những hạn chế về trình độ khoa học và tinh thần trách nhiệm.

    Hiểu về tự kỷ như thế nào ?

    Trước hết, thuật ngữ “ Tự kỷ” đã được dùng tại Việt Nam một cách không chính xác, bởi vì nếu hiểu tự kỷ là tình trạng tự bản thân trẻ không thể thiết lập được mối quan hệ với bên ngoài qua ngôn ngữ và hành vi giao tiếp thì phải gọi đó là tình trạng Tự Bế hay Tự Tỏa, (bế quan – tỏa cảng) trong khi tự kỷ chỉ có nghĩa là tự bản thân mình. Điều này đã khiến cho một số người nhầm lẫn tự kỷ với tình trạng tự kỷ ám thị (tự tạo ra những tác động cho chính mình, đây là cụm từ Hán Việt chính xác) và vì thế đến nay lại thêm một số cách dùng từ Tự kỷ ở giới trẻ để chỉ một thái độ co cụm, xa cách người khác, không thích giao du! giống như một dạng trầm cảm!

    Danh từ Tự Kỷ được phổ biến khoảng năm 1987 tại Việt Nam, nhưng cho đến nay thì vẫn còn tình trạng không xác định đâu là biểu hiện quan trọng, đâu là những yếu tố phụ trong việc chẩn đoán xác định tình trạng và mức độ đã khiến một số các nhà chuyên môn và phụ huynh không biết cần phải làm gì để can thiệp cho con em mình.

    Tự kỷ hay rối loạn phổ tự kỷ được dịch từ cụm từ Autism Spectrum Disorder và đây không phải là một rối loạn duy nhất, nó bao gồm các tình trạng sau:

    • Rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD)
    • Hội chứng Asperger ( Asperger’s Disorder – AD)
    • Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (Pervasive Development Disorder Not Otherwise Specified – PDD NOS )
    • Hội chứng Rett ( Rett’s Disorder )
    • Rối loạn nhân cách tuổi bé tí (Childhood Disintegrative Disorder – CDD)

    Đây là nói  theo sự phân loại của DSM IV, nhưng qua đến sách DSM V thì gọi chung là Rối loạn phổ Tự kỷ ( ASD ) và chỉ có 2 mức độ là rối loạn tự kỷ chức năng cao và rối loạn tự kỷ chức năng thấp.

    Hiện nay, người ta cho rằng tự kỷ là một rối loạn phát triển thần kinh, theo ông Alessandri, chuyên gia của ABCNews.com’s phụ trách chuyên mục tư vấn qua điện thoại về tự kỷ : “Các nhà khoa học và bác sỹ lâm sàng giờ đã hiểu rằng tự kỷ không chỉ một thực thể đơn lẻ, mà là nhiều hội chứng gây nên rối loạn phổ tự kỷ,” ông Alessandri nói.

    Ngoài ra, có không ít người kể cả một số các nhà chuyên môn vẫn chưa phân biệt một cách rõ ràng giữa tình trạng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) với tình trạng hiếu động – kém chú ý (Còn gọi là tăng động giảm tập trung : Attention-Deficit-Hyperactivity Disorder- ADHD) và trẻ Chậm khôn (Mental Retardation) do ba tình trạng này có một số biểu hiện khá giống nhau, và có trẻ có cả hai các triệu chứng rối nhiễu này. Thế nhưng nếu xét kỹ về nguồn gốc rối nhiễu, và các biểu hiện quan trọng thì chuyên gia có kinh nghiệm sẽ nhìn ra những yếu tố khác biệt.

    Vì tình trạng tự kỷ có rất nhiều dấu hiệu cảnh báo, đi từ những dấu hiệu nguy cơ ở mức độ nhẹ cho đến những biểu hiện lâm sàng rõ rệt, nên việc xác định một trẻ tự kỷ thực sự không phải là điều dễ dàng, từ đó càng làm cho rối nhiễu này thêm rối, dẫn đến những nhận định trái chiều nhau giữa cha và mẹ hay giữa cha mẹ và nhà chuyên môn. Có nhiều bậc cha mẹ khi thấy trẻ có hành vi đi nhón gót, không biết chỉ tay, chỉ nói được vài từ đã nhất quyết là con mình bị tự kỷ. Còn có nhiều người lại không chấp nhận những dấu hiệu đã khá rõ ràng của con, mà chỉ cho là nó chậm nói hay chậm phát triển thôi !

    Nhiều người gọi đây là bệnh tự kỷ, điều này tuy không sai nhưng nó lại vô tình dẫn ta đến những suy nghĩ sai lệch, đó là quên yếu tố bẩm sinh mà chỉ cố tìm ra các nguyên nhân mắc phải sau khi sinh, đặc biệt là yếu tố cha mẹ ít chăm sóc con, ít trò chuyện với trẻ, thường xuyên để trẻ ở nhà với những người thiếu quan tâm về mặt giao tiếp, ít trò chuyện với trẻ như người giúp việc, ông bà … hay chính bản thân trẻ là người hướng nội, không thích giao tiếp…Trong khi đây chỉ là những yếu tố có thể làm cho tình trạng này trở nên khó khăn hơn.

    Nhưng điều gây ngộ nhận nhất, khi gọi tự kỷ là một chứng bệnh, sẽ khiến nhiều người hiểu rằng, đã là bệnh ắt có thuốc chữa, cách chữa. Và khi đã chữa thì trẻ sẽ bình phục, trở lại cuộc sống bình thường. Vì thế, họ cứ mải miết đi tìm những loại thuốc quý hiếm, những phương pháp mới lạ với suy nghĩ: Tiền nào của đấy! càng đắt tiền lại càng công hiệu. Hơn nữa điều này còn dẫn đến những định hướng sai lầm trong các biện pháp can thiệp, đôi khi họ lại chọn giải pháp đi theo các kinh nghiệm của những bà mẹ đã nỗ lực chiến đấu vì con mình mà không hiểu rằng tình trạng tự kỷ của con mình không giống với con của những bà mẹ đó.

    Tuy đã có rất nhiều biện pháp can thiệp được phổ biến, nhiều ngôi trường dạy trẻ Tự kỷ được mở ra nhưng các hiểu biết đúng đắn về tình trạng này cũng như chất lượng của các trường giáo dục chuyên biệt cho nhóm trẻ này vẫn bị thả nổi. Hơn thế nữa, ở nước ta hầu như chưa có một chính sách hỗ trợ nào cho các gia đình có trẻ tự kỷ, vì thế nhiều gia đình vẫn cứ phải “tự bơi” trong một biển mênh mông các thông tin một cách mơ hồ với các ảo tưởng thực hư về tình trạng của con mình.

    Tự kỷ là chậm nói và có hành vi kỳ lạ ?

    Như đã nói tự kỷ có những dấu hiệu nguy cơ và những biểu hiện lâm sàng từ nhẹ cho đến nặng, nhất là tình trạng chậm nói của trẻ. Khi thấy con chậm nói, thì hầu hết các bậc cha mẹ đều nghĩ đến tự kỷ, mà họ không biết rằng trẻ ADHD hay Chậm khôn cũng có tình trạng chậm nói, mặc dù đây không phải là dấu hiệu chính của 2 tình trạng này.

    Ngoài ra, cũng có những trường hợp chậm nói do yếu tố bên ngoài, ta goi là chậm nói đơn thuần do việc trẻ không có điều kiện tiếp xúc bằng ngôn ngữ trong giai đoạn tập nói từ 1 – 3 tuổi. Tuy nhiên điều làm cho các bậc cha mẹ lo ngại hơn cả, là những hành vi kỳ dị của trẻ mà trong các dấu hiệu chỉ Tự kỷ, các hành vi kỳ dị này được xem là những chứng cớ chắc chắn nhất. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong 5 yếu tố cần phải có là:

    1/ Sống khép kín, không biết cách chơi với người khác

    2/ Dễ nổi nóng( vì sợ, giận, buồn..)

    3/ Ngôn ngữ thiếu vắng, chậm

    4/ Lặp đi lặp lại trong hành vi và ngôn ngữ

    5/ Hành vi lạ kỳ như nhún nhảy, xoay tròn, đưa tay ve vẩy trước mặt

     Nếu cần đánh giá một cách kỹ hơn, chúng ta nên xét đến các yếu tố :

    1. Không biết nhìn theo hướng chỉ tay của người lớn vào một vật, hoặc chỉ nhìn vào bàn tay của người chỉ.
    2. Không trả lời, không có phản ứng khi có người gọi tên mình.
    3. Không biết bắt chước hành vi, nhưng có thể nhại lời
    4. Chậm phát âm: Không biết nói bi bô, líu lo
    5. Phát âm những tiếng kỳ lạ, không đúng với tình huống.

    6 .Có những sở thích kỳ lạ, thích các món đồ bình thường: Bao giấy, đồng xu, sợi dây…

    1. Có một số hành vi lập đi lập lại ( thích sắp xếp các vật dụng theo một thứ tự nhất định)
    2. Không có khả năng chơi đùa với các bạn cùng trang lứa
    3. Thường xuyên kích động, lăng xăng khó ở yên một chỗ.
    4. Thường thức rất khuya, khó ngủ, hay ngủ không yên giấc
    5. Không bộc lộ những cảm xúc vui, buồn một các rõ ràng
    6. Rất ghét sự tiếp xúc, đụng chạm của người khác đến người của mình hoặc ngược lại, quá gắn bó, đeo bám, thích vuốt ve, sờ chạm.
    7. Hay có những cơn giận dữ, kích động quá mức không kềm chế được.
    8. Thờ ơ trước mọi tình huống, ít bộc lộ cảm xúc.
    9. Thiếu ý thức về thời gian.

    Đây là những dấu hiệu dành cho trẻ trên 3 tuổi và phải có ít nhất 2/3 các dấu hiệu này kéo dài trong 6 tháng. Còn với trẻ dưới 3 tuổi thì yếu tố quan trọng là không có khả năng giao tiếp bằng mắt, có cái nhìn thờ ơ trước mọi người, không biết chơi đồ chơi và chậm phát âm. Như vậy, có thể nói để chẩn đoán đánh giá một trẻ tự kỷ, không thể là một sự đánh giá duy nhất trong một thời gian ngắn, mà cần có những biện pháp kết hợp và kinh nghiệm lâm sàng của chuyên viên, cũng như sự cộng tác tích cực trong việc cung cấp các thông tin một cách khách quan và đầy đủ hay sự quan sát của gia đình.

    CVTL. LÊ KHANH

    Phó chủ tịch Hội đồng chuyên môn

    Cty Giáo dục KidsTime – Hà Nội

  • Nguyên Tắc Can Thiệp Giáo dục Trẻ đặc biệt tại gia đình

    Nguyên Tắc Can Thiệp Giáo dục Trẻ đặc biệt tại gia đình

    me-va-con

    Khi có một đứa con có những khó khăn trong ngôn ngữ, giao tiếp, hành vi hay khả năng nghe – hiểu, thì cha mẹ cần xác định 3 vấn đề :

    1/ Tình trạng này không phải là một chứng bệnh mắc phải do những yếu tố từ bên ngoài, do đó không có bất kỳ một phương pháp điều trị nào có thể giải quyết được trong một thời gian ngắn hay dài.

    2/ Tình trạng này chỉ có thể can thiệp, giúp trẻ phát triển bằng các phương pháp giáo dục. Có rất nhiều các phương pháp giáo dục khác nhau, Cha mẹ hãy tìm kiếm, chọn lựa và học hỏi những phương pháp nào phù hợp với tình trạng của con mình, chứ không nên áp đặt con vào một phương pháp được cho là hay nhất.

    3/ Trong việc can thiệp và giáo dục con, thì cha mẹ có vai trò quan trọng thông qua những biện pháp, nguyên tắc được áp dụng tại gia đình, chứ không thể giao hết việc giáo dục can thiệp cho các giáo viên hay nhà trường chuyên biệt.

    1. Giúp trẻ Phát triển về ngôn ngữ :

    Với những trẻ chậm nói, bố mẹ hãy tạo nhiều  cơ hội cho trẻ có thể bật ra lời nói trong mọi giao tiếp hằng ngày tại gia đình, trong các sinh hoạt bình thường để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.

    Trong việc tập nói cần dùng nhiều công cụ khác nhau :

     Dùng con rối, búp bê, tranh ảnh, đồ chơi tượng hình (Con thú, đồ vật, dụng cụ ) trong khi ngồi chơi ( mỗi ngày chừng 30 phút – 60 ) với trẻ.

    • Dùng các món đồ thật (ly, chén,  khăn, banh … ) không bể, vỡ gây nguy hiểm trong các sinh hoạt hằng ngày, vừa nói tên các đồ vật, vừa khuyến khích trẻ nhắc lại trong khả năng có thể.
    • Dùng các tranh ảnh kết hợp với các câu chuyện kể hay các bài hát ru, bài vè, đồng dao với các trò chơi.và một số phương tiện máy móc (Máy ghi âm. Băng dĩa, phần mềm vi tính…) trong các giờ nghỉ buổi trưa hay khi chuẩn bị đi ngủ.

    Nguyên tắc sử dụng :

    • Ngắn gọn, sinh động, lập lại thường xuyên với sự thay đổi hình thức, cách diễn tả.
    • Giới thiệu với những câu nói đơn giản, có các từ cụ thể
    • Trẻ được tham gia tích cực, được quyền “lái” câu chuyện theo ý mình, khuyến khích trẻ đặt câu hỏi, kích thích trí tò mò nơi trẻ.

    Hoạt động giúp trẻ phát triển khả năng quan sát và phát triển tư duy :

    • Bước 1 : Bỏ từ 3 – 5 vật khác nhau vào trong một cái túi
    • Cho trẻ thò tay vào cầm lấy vật và đoán (không được thấy ).
    • Cho trẻ nhìn vật bên ngoài túi (chỉ thấy một phần nổi lên) và phải đoán ra là vật gì

    Chúng ta có thể bầy trên bàn từ 3 – 5 vật khác nhau rồi lấy khăn che đi, sau đó giở ra cho trẻ xem, rồi đậy lại yêu cầu trẻ nhớ lại và đoán (nói đúng tên món đồ)

    Buổi tối nên có giờ kể chuyện cho trẻ nghe, khi trẻ tỏ ra chẳng chú ý gì vào câu chuyện, bố mẹ nên có sự kết hợp với tranh ảnh, con rối, búp bê cho thêm phần sinh động và không quá dài ( tối đa khoảng 5 phút).

    Nên có những câu chuyện mang tính mô tả, mà trong đó trẻ là nhân vật chính.( Có thể dựa vào một câu chuyện tranh, ta thay đổi nhân vật chính trong chuyện bằng trẻ ). Các phương tiện máy móc, nếu biết sử dụng một cách khéo léo, hợp lý thì cũng tạo ra những hiệu quả tốt, nhưng điều quan trọng là bố mẹ luôn phải là người tham gia, hướng dẫn , nhắc nhở, kích thích sự quan tâm của trẻ, động viên trẻ có những phản ứng lại. Việc để cho trẻ ngồi xem với các phương tiện nghe nhìn (TV/Vidéo) một mình là điều hết sức tai hại .

    1. Nguyên tắc Chăm sóc trẻ tại nhà:

    Trẻ đặc biệt là những trẻ có tình trạng rối nhiễu và có khó khăn về giác quan, cảm xúc và khả năng giao tiếp. Các trẻ này thường chỉ được phát hiện khi có tình trạng chậm nói, nhưng thực ra những khó khăn của trẻ đã có ngay từ trong bụng mẹ, vì vậy cần phải quan tâm đến các dấu hiệu bất thường của trẻ ngay từ lúc sơ sinh, và tác động can thiệp càng sớm càng tốt.

    Xây dựng một tập thể xung quanh: Việc chăm sóc trẻ là một công việc dễ gây mệt mỏi  và nhàm chán vì trẻ hầu như không đáp ứng lại các yêu cầu . Vì vậy cha mẹ hãy tìm kiếm những người có thể hỗ trợ mình như ông bà, vợ chồng, họ hàng. Nhưng điều quan trọng là các nhân tố này cần có những hiểu biết về tình trạng của trẻ và có cùng một cách tác động như nhau ( Điều gì cấm trẻ thì tất cả đều cấm, không được chiều chuộng nhưng cũng không quá nghiêm khắc với trẻ ) . Sau đó là các nhà chuyên môn để góp ý và hướng dẫn mục tiêu phù hợp , cùng với giáo viên dạy trẻ tại trường ( dành cho trẻ đặc biệt ) để phối hợp với nhau. Không có sự phối hợp thì việc can thiệp khó thành công.

    Tương tác với con bạn một cách hợp lý: Có những phụ huynh dù biết rằng việc tương tác với con là điều cần thiết, nhưng do công việc, nhu cầu kiếm sống họ đã không thể thu xếp thời gian  thích hợp .Những phụ huynh khác thì lại bỏ hết công ăn chuyện làm, để suốt ngày quanh quẩn bên con, họ ôm ấp đứa con và làm thay cho trẻ, điều này vô tình lại hạn chế khả năng phát triển mà đứa trẻ cần đạt được bằng sự nỗ lực của bản thân.

    Vì vậy, việc dành cho con một số giờ thích hợp trong ngày để tạo ra sự tương tác tích cực là điều mà bố mẹ cần hết sức quan tâm.

    Xây dựng những nguyên tắc và luật lệ : Chăm sóc con là một quá trình kéo dài, từ năm này qua năm khác vì vậy cần có những nguyên tắc và luật lệ rõ ràng, nó không những giúp trẻ biết được những yêu cầu mà trẻ cần đạt được và những giới hạn để nó không thể vượt qua, mà còn có thể giúp cho các phụ huynh kiểm soát được mức độ mà mình dành cho trẻ, giúp cho họ có sự ổn định trong việc tiến hành việc giáo dục cho trẻ.

    Chúng ta cũng nên biết rằng, việc nuôi dưỡng một trẻ có nhu cầu đặc biệt  sẽ có những tác động nhất định lên môi trường gia đình, đó là những áp lực  mạnh mẽ lên các mối tương giao của các thành viên gia đình, đó vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của những tan vỡ gia đình. Có những bất hòa, mâu thuẫn trong cách nuôi dạy và cả những tốn kém thái quá cũng có có thể dẫn đến những cãi vã, lo lắng và căng thẳng trong quan hệ giữa bố mẹ. Vì vậy, việc chăm sóc giáo dục trẻ không chỉ là những biện pháp tập trung vào trẻ, mà còn bao gồm cả những biện pháp tạo ra bầu khí lành mạnh và những phương pháp nâng đỡ thể chất và tinh thần cho chính bố mẹ của trẻ.

    Kỹ Thuật hướng dẫn trẻ học tập: Giáo dục trẻ đặc biệt bằng những bài tập ở nhà là một việc hết sức vất vả nhưng cần thiết, tuy nó không đòi hỏi những kỹ thuật đặc biệt nhưng một phương pháp đúng đắn, sự kiên nhẫn, vui vẻ và nhất quán là những yếu tố không thể thiếu trong một chương trình học tập tại gia đình.

    benh-tieu-chay4

    Các nguyên tắc chung trong việc giáo dục trẻ tại gia đình :

    1. Tính tiệm tiến: Chương trình giáo dục là một kế hoạch kéo dài từ năm này qua năm khác, vì vậy không thể rút gọn hay chồng chất những mục tiêu khác nhau trong 1 buổi can thiệp. Chương trình phải tiến hành từng chút một, qua từng giai đoạn, giải quyết từng mục tiêu một cách nhẹ nhàng và bền bỉ.
    2. Tính nhất quán : Phải xác định được mục tiêu cần đạt trong 1 ngày, 1 tuần, hay một tháng và kiên quyết tập trung vào mục tiêu đó bằng một số biện pháp ( Trò chơi, hình vẽ, bài hát… ) cho đến khi có thể đạt được mục tiêu. Chúng ta cũng có thể linh động điều chỉnh, một số công cụ, thời gian hay cách tiếp cận cho phù hợp, nhưng khi đã xác định mục đích cần đạt, thì đó là điều không thay đổi.
    3. Tính liên tục: Trong giai đoạn đầu việc can thiệp, cha mẹ thường rất hăng hái trong việc tập luyện cho con, nhưng sẽ có những ngày bận rộn, mệt mỏi , khi đó họ sẽ bỏ qua một vài buổi tập luyện vì cho rằng, điều đó chắc không ảnh hưởng gì. Nhưng việc bỏ qua một vài buổi học sẽ là khởi điểm cho việc bỏ qua ngày càng nhiều hơn, đôi khi hàng tuần lễ và điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ trở lại vạch xuất phát dù cho đã tiến hành được cả một năm rồi !
    4. Tính đơn giản: Một kế hoạch càng rõ ràng, càng đơn giản sẽ càng cho hiệu quả cao vì điều đó giúp cho cả người hướng dẫn lẫn đứa trẻ dễ tập trung vào nội dung và nắm bắt một cách nhẹ nhàng. Hãy sử dụng những công cụ đơn giản, những lời hướng dẫn ngắn gọn, một không gian học tập êm ả và vui vẻ. Đó là những điều đơn giản cần phải có trong một buổi can thiệp

    Trong việc can thiệp thì mọi kế hoạch mọi ý tưởng đều cần được bàn bạc, trao đổi rốt ráo. Có thể có những tranh luận, nhưng khi đã đưa ra được một chương trình, thì mọi người đều cùng thực hiện hay áp dụng các yêu cầu như nhau, có những trao đổi hay hướng dẫn trẻ giống nhau và theo chiều hướng tích cực.

    1. Thực hành việc can thiệp tại gia đình

    Trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ, cha mẹ phải có vai trò và trách nhiệm chính vì họ có điều kiện tiếp xúc rất nhiều với trẻ, kể cả các trẻ được đưa đi can thiệp tại các trường lớp chuyên biệt.

    Khi thực hiện một chương trình can thiệp, phụ huynh cần lưu ý các nguyên tắc sau

    1. Tiến hành từng bước một: Bất cứ một hoạt động nào trong nhà cũng cần chia ra từng bước một và tiến hành hướng dẫn cho trẻ từ những bước đơn giản nhất, chỉ khi nào trẻ làm được, mới tiến lên bước kế tiếp.
    1. Nhắc lại các hướng dẫn : Trẻ không thể nào nhớ những gì đã hướng dẫn mà cần phải nhắc đi nhắc lại trong khi trẻ đang thực hiện, và sau khi làm xong cũng cần nhắc lại. Đến lúc muốn trẻ làm cũng phải nhắc lại những điểm chính yếu.
    1. Để trẻ Tự làm:, Trẻ chỉ có thể đạt được các khả năng khi có thể tự làm, vì thế việc hướng dẫn trẻ phải luôn nhắm đến mục đích sao cho trẻ có thể tự làm, dù không thể làm tốt nhưng phải để trẻ có cố gắng trong việc tự hoàn thiện.
    2. ổn định trong các hoạt động: Việc tổ chức một nơi ngăn nắp , ít nhất là trong căn phòng của trẻ hay một khu vực nào đó, với những nghi thức, thói quen mang tính ổn định là điều cần phải đặt ra.
    3. Vận dụng nhiều Giác quan: Cần phải giúp trẻ có thể vận dụng càng nhiều giác quan trong việc học tập càng tốt, trẻ cần được nghe, nhìn, ngửi, nếm, sờ vào các dụng cụ, đồ vật khi học tập các kỹ năng trong cuộc sống.
    4. Tính cá nhân trong từng hoạt động: Sự phát triển của trẻ không trẻ nào giống trẻ nào, vì thế đó là một kế hoạch giáo dục cá nhân. Kế hoạch này xây dựng trên những nền tảng chung, nhưng phải được áp dụng một cách linh hoạt khác nhau tuỳ theo khả năng tiếp nhận của trẻ.
    1. Thường xuyên động viên: Trẻ cần có một khung cảnh giáo dục :
    • Không có sự sợ hãi và ép buộc, mà là một không khí thân thiện, lạc quan
    • Không có sự chán nản, mà là sự vui vẻ ham thích các hoạt động.
    • Không có sự trừng phạt cái sai mà chỉ có sự khuyến khích cái đúng.

    Giáo dục các kỹ năng sinh hoạt hàng ngày

    Kỹ năng sinh hoạt hàng ngày chính là lĩnh vực trách nhiệm của các phụ huynh trong việc can thiệp cho trẻ. Đây là các hoạt động giúp trẻ tiến đến cuộc sống độc lập hơn. Các kỹ năng này bao gồm các hoạt động trong nhà, từ việc ăn uống, mặc quần áo, vệ sinh cơ thể cho đến các kỹ năng cao hơn như phụ việc nhà, sử dụng một số công cụ và các kỹ năng giao tiếp xã hội, ứng phó với những tình trạng nguy hiểm.

    Đây chính là mục tiêu của hoạt động chăm sóc và giáo dục chứ không phải những kiến thức hay khả năng về phương diện  văn hóa như khả năng vẽ, tô màu, đánh vần, nhớ mặt chữ, nhớ số … hay khả năng hát múa vì đây lại là trách nhiệm và sở trường của các giáo viên trong việc can thệp cho trẻ tại nhà trường

    Đây cũng là một hoạt động cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và cha mẹ các em. Chỉ khi nào cả hai cùng tiến hành được những biện pháp giống nhau, xác định được các mục tiêu cần đạt đến thì chừng đó hoạt động giáo dục cho trẻ mới có thể có hiệu quả.

    Các kỹ năng trẻ cần đạt đến:

    • Kỹ năng ăn, uống: Cần giúp trẻ có thể tự ăn, uống một cách đon giản nhất
    • Kỹ năng Vệ Sinh: Biết khi nào cần vệ sinh, biết sử dụng nhà vệ sinh và một số công cụ vệ sinh : Vòi nuớc, Giấy vệ sinh, khăn lau, bàn chải…
    • Kỹ năng tắm rửa và chải tóc : Trẻ có thể sử dụng vòi sen, biết múc và dội nước, biết xoa xà bông, biết dùng lược chải tóc.
    • Kỹ năng mặc quần áo: Trẻ biết mặc quần lưng thun, biết tụt xuống, cởi ra, kéo lên, tròng vào, cài cúc áo. Nếu khá hơn là có thể dùng dây kéo.  Biết mặc bít tất, xỏ dây thắt lưng.
    • Kỹ năng vận động: Biết các kỹ năng vận động thô – vận động tinh phù hợp với độ tuổi phát triển.
    • Các kỹ năng xã hội và Giao tiếp : Đây là mục tiêu cao nhất mà các trẻ có thể đạt đến sau một thời gian dài được chăm sóc tích cực và đúng phương pháp. Các em biết phân biệt người lạ, quen, biết chào, biết hỏi ý trước khi làm, biết chấp nhận đám đông, biết hạn chế những hành vi thiếu ổn định ở chỗ đông người. Chấp nhận sự  chờ đợi ….

    Linh động và sáng tạo trong việc phối hợp, điều chỉnh các phương pháp giáo dục, điều gì phù hợp với trẻ thì làm, điều gì không hợp thì bỏ, không nhất thiết phải bám sát các nguyên tác cứng nhắc, cần phải bám sát các nguyên lý sau :

                                         PHÙ HỢP – ỔN ĐỊNH – LIÊN TỤC – THỐNG NHẤT !

     CV.TL LÊ KHANH

  • Phát Triển Tài năng cho con

    Phát Triển Tài năng cho con

    Chúng ta không  khuyến khích việc đào tạo thần đồng, nhưng phụ huynh lại cần phải có sự quan tâm để nhận biết những khả năng đích thực của trẻ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho trẻ phát triển được những tài năng của mình một cách chắn chắn với sự ham thích và tính tự nguyện.

    developing-life-skill

    Ngay từ khi trẻ biết đi thì đã bắt đầu bộc lộ những khả năng có thể là dấu hiệu báo trước những tài năng thiên phú. Đây là những dấu hiệu cho thấy khả năng phát triển tốt nơi trẻ :

    5 dấu hiệu tài năng ở trẻ dưới 3 tuổi

    1. Biết nói sớm Trẻ có thể học nhanh và nói được nhiều từ vựng, hay đặt ra các hỏi các sự việc đến tận gốc rễ và có khả năng nhìn nhận vấn đề dưới nhiều góc cạnh.
    1. Biết đọc sớm :Trẻ biết chú ý theo dõi quá trình nhận biết chữ và tranh ảnh, chỉ cần một sự gợi ý là nó biết chọn đúng quyển sách mà nó đã đọc và phát âm tốt các từ ngữ. Trẻ có sự ham thích trong việc xem các truyện tranh và cố gắng tìm kiếm cách hiểu các chữ ghi trong đó.
    1. Thích các con số :Trẻ rất thích các con số của các vật như: số bậc thang gác, biển số các xe máy ô tô thường qua lại nhà, nhớ được các số điện thoại của người thân, đọc được các con số trong sách vở. Tuy nhiên, việc quá gắn bó, say mê các con số mà không có ý thức về số lượng ( nhiều & ít ) thì lại là một dấu hiệu nguy cơ của tình trạng Tự Kỷ, một rối loạn giao tiếp rất khó chữa trị.
    1. Biết giải quyết vấn đề :Trẻ thích chơi các trò chơi của những đứa trẻ lớn tuổi hơn nó, tự tìm cách giải quyết các vấn đề khó của các trò chơi và đặc biệt hứng thú với các tình tiết nhỏ.
    1. Có khả năng tập trung sự chú ý :Trẻ có thể dành nhiều thời gian để chú ý tới một sự việc từ đầu đến cuối như chuyên tâm kiên nhẫn hoàn thành một trò chơi ghép hình khó hoặc có khả năng tập trung vào một hoạt động nào đó trong một thời gian trên 15 phút.

    Khi nhận ra trẻ có những dấu hiệu này, các bậc cha mẹ nên có những hỗ trợ thích hợp để giúp trẻ phát triển tốt hơn những khả năng sẵn có của mình và tìm hiểu xem cháu có xu hướng thiên về hướng nội hay hướng ngoại để định hướng phát triển cho phù hợp.

    Biện pháp giúp trẻ phát triển:

    Có rất nhiều những biện pháp khác nhau để giúp cho một cháu bé phát triển năng lực thông qua tập luyện, nhưng có hai biện pháp đơn giản kích thích một cách tự nhiên các năng lực của trẻ là:

    1. Tạo bầu khí thoải mái cho trẻ :Chúng ta không cần phải tốn tiền để mua các trò chơi đắt tiền, chỉ cần tạo cho trẻ một hoàn cảnh để nó phát huy được hết sức tưởng tượng của nó, cho dù xung quanh nó chỉ có các hộp giấy, thảm trải giường, chăn gối và các đồ vật có sẵn trong phòng.

    Trò chơi sáng tạo rất quan trọng đối với sự trưởng thành của trẻ, nhất là trẻ có kha năng lại rất cần có cơ hội để thể hiện mình, nó tự biết thông qua trí tưởng tượng để hình dung và tìm hiểu thế giới.

    1. Tạo hứng thú học tập :Trẻ nhỏ ham thích và hứng thú tham gia các loại trò chơi, có thể đối với bạn thì rất nhạt nhẽo đơn điệu nhưng với trẻ nhỏ lại có thể là một sự hứng thú ngoài ý muốn. Cho nên cần tạo cơ hội để trẻ nhỏ được rèn luyện trí lực trong cuộc sống thường ngày.

    Bên cạnh hai yếu tố trên, phụ huynh có thể áp dụng một số các kỹ thuật dưới đây để nâng cao khả năng cho trẻ:

    1. Cùng trẻ ghi nhớ và tính toán hoá đơn mua hàng :Khi dẫn trẻ đi siêu thị có thể cho trẻ tự chọn các loại rau và hoa quả hoặc để trẻ tính toán hôm nay tiêu mất bao nhiêu tiền, có thể trẻ sẽ rất hứng thú làm theo gợi ý của bạn.
    1. Nên sắp xếp thời gian cùng đọc và xem với trẻ :Sách không những là bậc thang trí thức mà còn là chiếc cầu nối cho mối quan hệ giữa bố mẹ và con, nên khi kể  chuyện cho trẻ bạn nên ngồi bên cạnh và ôm ấp trẻ, giây phút ấm áp đó sẽ làm cho trẻ càng hứng thú đọc và nghe bạn kể chuyện. Để cho trẻ tự chọn một quyển sách rồi nói cho trẻ cách xem tranh minh hoạ, quan hệ giữa tranh và lời trong sách.
    1. Cùng trẻ nhẩm lời ca của bài hát :Đa số trẻ nhỏ đều thích hát, có thể lợi dụng điểm này để giúp trẻ học tiết tấu và luật gieo vần trong các bài đồng dao, điều này sẽ giúp trẻ tăng cường khả năng ghi nhớ.
    1. Chơi trò chơi ghép hình :Trò chơi ghép hình đơn giản nhưng có thể tạo nên các phản ứng nhạy bén. Khi trẻ nhỏ tự nó hoàn thành một trò chơi ghép hình nó sẽ có một sự phấn khởi khác thường với thành tựu của mình.

    Kiểm tra khả năng phát triển

    Để có thể biết một cách chắc chăn là con mình có khả năng phát triển tốt, chúng ta có thể đưa ra các câu hỏi để xem trẻ có thể đáp ứng được một cách tốt nhất hay không ?  

    Các câu hỏi cho trẻ trên 5 tuổi

    1. Nhớ và thuộc một bài thơ, một đoạn văn.
    2. Chú ý tới sự thay đổi tính tình của bạn, quan sát thấy bạn lúc nào thì đau buồn hay vui sướng.
    3. Thường có những câu hỏi như tại sao, lúc nào sẽ bắt đầu, sao thế này mà không thế kia…?
    4. Ít khi thấy trống vắng, không biết làm gì. ( lúc nào cũng có thể nghĩ ra được việc để làm)
    5. Cử chỉ khéo léo, nhịp nhàng.
    6. Có thể múa và hát theo nhạc.
    7. Thường hỏi những câu như sấm chớp là cái gì, sao lại có mây…?
    8. Nếu bạn thay đổi một vài từ quen thuộc trong câu chuyện, trẻ lập tức sửa lại ngay.
    9. Tập đi xe đạp, trượt patin một cách dễ dàng.
    10. Rất thích đóng kịch, thích bịa ra một câu chuyện và đóng vai chính trong chuyện.
    11. Đi qua phố ngõ, nhận được ra nơi nào trẻ đã đi qua.
    12. Thích vẽ và vẽ được tranh, bản đồ.
    13. Thích nghe nhạc, dựa vào âm thanh đoán được nhạc cụ gì.
    14. Giỏi bắt chước động tác và cách diễn cảm của người khác.
    15. Thích phân loại đồ chơi theo kích thước to nhỏ và màu sắc, đồ chơi có hình dáng gì cũng hấp dẫn trẻ.
    16. Hay gắn liền hành động với tình cảm, ví dụ nói: “em bực nên mới làm thế”.
    17. Thích kể chuyện và kể rất sinh động.
    18. Có thể phân biệt được các tiếng động khác nhau.
    19. Mới gặp ai đó lần đầu, trẻ thường liên tưởng đến một khuôn mặt quen thuộc.
    20. Có thể phán đoán chính xác được rằng mình có thể làm được gì, không làm được gì.

    Nếu trẻ đạt được trên 10 trong tổng số 20 yêu cầu trên, trẻ đã có được mức thông minh trên trung bình và cần được quan tâm, bồi dưỡng để trẻ phát triển tốt hơn.

    Nếu trẻ đạt dưới 10 yêu cầu hay các yêu cầu chỉ ở mức trung bình, tạm được thì cũng là điều bình thường và chúng ta không nên đòi hỏi ở trẻ những yêu cầu cao.

    Các bậc phụ huynh cũng có thể dựa vào các khả năng này để có thể đưa ra một số những biện pháp tác động cho trẻ, nhưng nên nhớ rằng tất cả phải dựa trên sự khuyến khích, gợi ý và tự nguyện. Sự ép buộc hay dụ dỗ dưới bất cứ hình thức nào đều không đạt được kết quả tốt.

    CVTL. LÊ KHANH

  • Hướng dẫn Kỹ năng Xã hội cho trẻ Đặc biệt

    Hướng dẫn Kỹ năng Xã hội cho trẻ Đặc biệt

    Trong quá trình can thiệp và giáo dục cho các trẻ đặc biêt, đối với những em đã có thể đạt đến khả năng tham gia học tập tại các trường bình thường trong chương trình hòa nhập, thì vẫn còn có một số trở ngại về hành vi tương tác xã hội gây khó khăn cho các em. Do đó, cha mẹ và giáo viên cần quan tâm đến việc hướng dẫn những kỹ năng xã hội cho trẻ.

    trevui-9

    Với các trẻ khó kiểm soát cảm xúc , phụ huynh cần lưu ý giúp trẻ phát triển các kỹ năng để tạo được các mối quan hệ tốt với môi trường xung quanh – Đây là những kỹ năng xã hội cần thiết trong ba lãnh vực là :  lĩnh vực đàm thoại – Tương tác và cảm xúc.

     LĨNH VỰC ĐÀM THOẠI

    Trẻ đặc biệt thường kém trong việc phát biểu (lúc nhỏ thường có tình trạng chậm nói) vì thể ngoài việc khuyến khích trẻ đọc sách, báo và khích lệ trẻ phát biểu nhiều trong phạm vi gia đình với các biện pháp như:

    • Hỏi thăm trẻ về các việc trẻ làm khi đi học ( không phê phán chỉ đưa ra nhận định)
    • Khi trao đổi nên giới thiệu với trẻ cách dùng từ chính xác và phong phú hơn
    • Khi trẻ nói, cần chú ý và không cắt ngang mà khuyến khích trẻ nói cho hết ý.

    Chúng ta nên giúp trẻ phát triển các kỹ năng sau :

    1. Diễn tả thái độ tích cực: Nhiều trẻ không nhận thức được âm điệu, đặc điểm mặt, và cử điệu, Vì thế khi trò chuyện với trẻ, ta cũng nên diễn tả  một cách sinh động bằng ánh mắt, nụ cười, các cử chỉ của bàn tay và có thể cả các vật dụng để minh họa. Trẻ sẽ dần dần bắt chước để thể hiện điều đó.
    2. Nhìn vào mắt. Khuyến khích trẻ nhìn người nói và tập trung vào lời nói của họ. Ðối với trẻ nhỏ, dạy trò chơi ‘rađa’ để giúp trẻ tập trung như chiếu tia ‘rađa’ vào đôi mắt của người nói (nhưng với người ngoài thì nên nói trẻ nhìn vào trán).
    3. Tỏ ra thích thú. Khi trò chuyện với trẻ ta luôn bầy tỏ các xúc ( qua việc chuyển động các cơ trên mặt và ánh mắt) Khuyến khích trẻ cũng nên làm như thế vì các em thường gặp khó khăn khi cần phải tỏ ra thích thú với người khác. Giúp trẻ hiểu cách nhìn buồn chán diễn tả ‘Con không thích bạn’ hay ‘Con không muốn nghe những gì bạn nói.’
    4. Bắt đầu đàm thoại. Trẻ tăng động thiếu tập trung thường cảm thấy khó khăn trong việc gặp gỡ người khác. Chúng có thể không biết cách mở đầu đàm thoại. Vì thể ta khuyến khích trẻ tập nói những câu như : Cháu chào bác ( chú / cô/ dì …) bác có khỏe không ? – Chào bác, trông bác hôm nay vui quá ? Chào bác, cháu giúp gì được cho bác ? .v.v.v

    Trong việc đàm thoại, nhắc nhở trẻ khi trao đổi với người khác ( người trong gia đình cũng như người lạ ) không nên nói trống không mà cần phải có chủ từ :

    Ví dụ : Người khác hỏi : Cháu ăn cơm chưa – Không nên đáp : rồi !  Nên nói : Dạ rồi, hay cháu ăn rồi – Tốt nhất : Dạ, cám ơn, cháu ăn rồi !

    Tuy nhiên, chúng ta cũng không khuyến khích trẻ nói hay trả lời với một câu nói dài dòng nhiều từ ngữ thừa, không đi vào trọng tâm của câu chuyện.

     LĨNH VỰC TƯƠNG TÁC :

    Trong việc xây dựng quan hệ hay trao đổi với người khác, ngoài ngôn ngữ thì hành vi cũng là điều mà trẻ cần được hướng dẫn với các kỹ năng :

    1. Tôn trọng biên giới thể chất. Trẻ thường vô tình đứng quá xa ( trên 1 m ) hay quá gần (dưới 50cm) khi tiếp xúc với người khác . Chúng ta nên dạy trẻ tôn trọng khu vực an toàn cá nhân của người khác ( Có bán kính tùy dân tộc nhưng phần lớn là trong phạm vi 50 cm). Dạy trẻ ở đâu là gần quá và cách đứng bên cạnh người khác mà không chạm đến họ. Để giúp trẻ biết ước lượng, ta có thể dạy trẻ co tay sau đó đưa cánh tay ra cho đến khi chạm nhẹ vào cùi chỏ người đối diện là đủ để dừng lại, không tiến sát hơn nữa.
    2. Nhận ra cử điệu. Dạy trẻ nhận ra nhóm bạn nào có nhiều cử điệu cởi mở hơn để dễ vào hoạt động trong nhóm. Học phân biệt nhóm nào cởi mở và nhóm nào khép kín (thành viên đứng gần nhau cách khép kín). Nhóm cởi mở hơn sẽ tăng sự thành công trong vấn đề tiếp xúc.
    3. Ðương đầu với sự từ chối. Dạy những cách hiểu và đương đầu với sự từ chối. Diễn tập là một cách tốt nhất để luyện tập. Đây là điều khó khăn như ta có thể tập cho trẻ bằng cách chính mình hãy bầy tỏ sự từ chối một cách rõ ràng : Ta có thể Kết hợp việc lắc đầu với lời nói: Không, không được … bố/mẹ không muốn / không thích như vậy…
    4. Chấp nhận sự bất đồng ý kiến. Giúp trẻ biết cách đương đầu với sự bất đồng ý kiến và thỏa hiệp qua cách nói : Điều anh ( bạn/em – hay cô/chú …) nói có thể đúng nhưng tôi ( em, cháu..) nghĩ có phần khác hơn …

     LĨNH VỰC CẢM XÚC

    Việc nhận biết và quản lý cảm xúc là một hoạt động khó khăn với trẻ đặc biệt, do đó chúng ta cần giúp trẻ biết thực hiện các bài tập về cảm xúc một cách thường xuyên . Các bài tập này được chia làm 3 cấp độ :

    1. Nhận diện cảm xúc : Khi trẻ có thái độ hay biểu hiện vui buồn giận dữ, lo lắng .vv. chúng ta nên nói ra cho trẻ biết đó là cảm xúc gì .
    2. Chấp nhận cảm xúc : Hãy để trẻ tự nhiên bộc lộ, không ngăn cấm hay chế nhạo những cách biểu hiện cảm xúc của trẻ.
    3. Quản lý cảm xúc : Sau khi đã bộc lộ, ta nên hướng trẻ đến một hoạt động nào đó để trẻ có thể tự chủ được ( Đây là những biện pháp tập luyện thường xuyên )

    Cảm xúc của trẻ thường không ổn định và có những biểu hiện khác nhau. Triệu chứng tăng động thiếu tập trung có thể thay đổi hàng ngày, thậm chí hàng giờ. Trẻ có thể có ‘ngày tốt’ khi trẻ  làm nhiều hơn những trẻ khác, và ‘ngày xấu’ khi coi như trẻ không làm gì cả . Nên giữ bình tĩnh hết sức để có thể giúp trẻ qua những giai đoạn khó khăn. Khi trẻ có ngày xấu, cố tự nhắc đây chỉ là một trong những ngày xấu và sẽ không luôn luôn như vậy. Dùng kỹ năng quản lý sự căng thẳng trong những lúc này.

    Tập thể dục thường xuyên có thể là một trị liệu thêm rất tốt đối với trẻ em (hay người lớn) có tình trạng này  Tập thể dục giúp giải phóng năng lượng, tập trung, và ích lợi trong việc phát triển thể chất cũng như sức khỏe. Nên làm những động tác thể dục vui để trẻ muốn làm.

    Cuối cùng, giữ sự vui tính và tha thứ. Bạn và trẻ sẽ phải vượt qua nhiều trở ngại và chắc chắn sẽ có những lúc rất bực bội và nhiều thử thách. Hãy chấp nhận cả điều tốt lẫn điều xấu. Tập trung vào mục tiêu dài hạn cho trẻ, cho bạn, và cho gia đình. Đừng lo lắng nhiều về những chuyện nhỏ.

     TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG PHẠM VI GIA ĐÌNH :

    • Treo bảng luật lệ, gồm những hành vi được và không được chấp nhận trong nhà.
    • Mỗi lần chỉ nói một nhiệm vụ hay một mệnh lệnh. Đưa ra những hướng dẫn, lựa chọn, và chương trình đơn giản.
    • Chia nhiệm vụ thành những phần nhỏ. Ðiều này rất quan trọng để tránh trẻ phản ứng ‘Con không thể làm được. Thêm vào đó, chúng ta có thể thay đổi bài vở với những bài dễ hơn hoặc cho trẻ nghỉ giữa chừng nhiều lần với những bài khó hơn. Ở nhà, trước khi bắt đầu làm bài, giúp trẻ chia mỗi bài ra nhiều phần nhỏ có thể làm được..
    • Tăng sự tập trung đối với những hướng dẫn bằng cách yêu cầu trẻ nhìn vào mắt bạn và lập lại những hướng dẫn của bạn. Viết ra những hướng dẫn và cho trẻ khoanh tròn hay gạch dưới những chữ quan trọng hoặc lập lại bằng lời nói..
    • Dùng dàn bài, dạy trẻ cách làm dàn bài, và dạy cách gạch dưới. Mặc dù áp dụng kỹ năng này không phải là dễ, sau khi học và dùng được, những kỹ năng này giúp rất nhiều vì chúng kết cấu và tạo hình dạng những gì đang học.
    • Viết nguyên câu và viết trên chỗ hẹp là việc khó đối với các em. Nếu có thể làm được, cho trẻ trình bày bằng lời hoặc viết mà không cần phải theo nguyên văn.
    • Cho trẻ dùng nhiều cách để trình bày ( Có thể bằng cách viết, nói hay vẽ ra).
    • Nên có chưong trình nhất định và rõ ràng cho trẻ. Treo chương trình trên bảng hay trên bàn học của trẻ.
    • Hỏi trẻ những gì sẽ giúp cho các em học bài mới cách tốt nhất. Nhiều lúc, chính trẻ có thể cho bạn biết. Nên ngồi xuống với trẻ và hỏi một cách đơn giản.
    • Khuyến khích trẻ đọc lớn tiếng. Ðiều này sẽ giúp trẻ giữ sự tập trung vào bài.

    MÔI TRƯỜNG CÓ TỔ CHỨC

    Trẻ thiếu tập trung cần sự tổ chức phối hợp. Trẻ cần môi trường có tổ chức ở bên ngoài vì chúng thiếu sự tổ chức ở bên trong tâm trí của mình. Phụ huynh cần làm danh sách những việc chính trong ngày ( Như một thời khóa biểu ) .

    Các nguyên tắc :

    • Nhắc trẻ nhiều lần. Cho trẻ biết trước những gì sẽ xảy ra. Trẻ cần sự lập lại nhiều lần.
    • Trẻ cần hướng dẫn rõ ràng, ngắn gọn và đơn giản. Trẻ cần những giới hạn về thời gian và không gian.
    • Bạn nên sắp xếp việc học phù hợp với giờ tốt nhất trong ngày. Có những môn học tốt hơn đối với trẻ ở giờ này hơn giờ khác trong ngày.
    • Mộn học khó hay môn học trẻ không thích nên dạy khi trẻ tập trung nhất
    • Thay đổi giờ làm bài /học bài. Tùy theo sự tập trung của trẻ.
    • Một số phụ huynh thấy giờ tốt nhất là ngay sau khi đi học về. Một số phụ huynh khác thấy trẻ cần nghỉ ngơi hoặc đi chơi sau khi đi học về. Một số phụ huynh khác nữa thấy trẻ làm tốt nhất khi công việc được chia ra nhiều phần nhỏ và tách ra với thời gian nghỉ ở giữa.

      Cv.Tl Lê Khanh

  • Quan sát Phát Hiện và Can thiệp cho trẻ đặc biệt

    Quan sát Phát Hiện và Can thiệp cho trẻ đặc biệt

    DẪN NHẬP

    Chúng ta biếttreem-b4 rằng sự tiếp thu thông tin sẽ thông qua các giác quan là  nhìn, nghe, sờ chạm, nếm, ngửi và sau đó các thông tin đó sẽ được chuyển lên các tế bào thần kinh có khả năng nhận thức, tập trung và phân tích để  ghi nhớ. Với một đứa trẻ, nếu có những khiếm khuyết về giác quan, thì sự ghi nhớ của bé sẽ hạn chế, và hơn thế nữa nếu bé không có khả năng tập trung, hay nhận biết thì những gì bé tiếp nhận lại càng hạn chế hơn, thậm chí là lộn xộn không rõ ràng, đầy đủ và hợp lý. Nhưng đứa trẻ đã bắt đầu cảm thụ các thông tin từ bao giờ ?

    Có phải chỉ sau khi sinh ra, trẻ mới có thể tiếp thu được các thông tin hay các kích thích qua các giác quan ?  Thực ra ngay khi còn trong bụng mẹ, một thai nhi đã bị nhấn chìm trong một thế giới tràn ngập màu sắc và âm thanh. Thai nhi như một miếng bọt biển có thể hấp thu các thông tin một cách đa dạng . Não bộ và các giác quan có một vai trò hết sức quan trọng, tuy nhiên sự tiếp thu này không đồng nhất, vì thế quá trình nhận biết của thai nhi cũng khác nhau cho từng khu vực và bộ phận. Đầu tiên là các thông tin về vị giác khi thai nhi phát triển được 13 tuần tuổi. Khi đến tuần thứ 7, vài nơi trên cơ thể thai nhi đã tỏ ra mẫn cảm với vài đụng chạm. Cả thân thể bé sẽ có phản ứng xúc giác vào tuần thứ 13 hay 14. Rồi đến Thính giác ở tuần thứ 18 và phát triển cho đến tháng thứ 5 . Còn  khứu giác ở tuần thứ 29 và hoàn thiện ở tuần thứ 36. Với thị giác thi thai nhi cảm nhận được ánh sáng từ tuần lễ thứ 20.

    Như vậy, chúng ta thấy ngay từ khi còn là bào thai thì việc tiếp nhận thông tin đã được hình thành và trở nên một yếu tố quan trọng cho sự phát triển của trẻ và cũng vì thế mà những khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin, đặc biệt là về mặt cảm xúc cũng sẽ gây ra những trở ngại về mặt phát triển cho trẻ khi còn trong bụng mẹ.

    Các chuyên gia cho rằng, ngay sau khi ra đời, bố mẹ nên nói chuyện với con một cách dịu dàng, xoa bóp vuốt ve và kích thích thị lực cho trẻ.  Chính vì thế, việc cho con bú sữa mẹ là một hoạt động cực kỳ quan trọng cho trẻ sơ sinh, vì hoạt động này đã kích thích toàn bộ con người của đứa trẻ,, từ giác quan đến nhận thức và cảm xúc.  Ngoài việc cho bú thì việc nói chuyện và chơi với trẻ sơ sinh là nền tảng tạo nên kỹ năng nhận thức và ngôn ngữ trong quá trình phát triển của bé , mặc dù trẻ sơ sinh chưa nói được, nhưng khi nghe được các âm thanh từ cha mẹ, thì bé đã có những phản ứng ban đầu.

    Đến đây, thì chúng ta thấy rằng, các trẻ có những khiếm khuyết về giác quan sẽ có nhửng hạn chế về mặt tiếp thu các thông tin đến từ bên ngoài, đến từ người thân và từ đó đưa đến những hạn chế về khả năng phát triển.

    Nhưng ngay cả với các trẻ không có các khuyết tật về giác quan, thì những hạn chế về khả năng nhận biết của não bộ, cũng sẽ là những rào cản rất lớn cho sự tiếp thu của trẻ. Điều này không khác gì việc ta nghe một ngôn ngữ, mà không biết được ý nghĩa thì cũng không thể hiểu được các thông tin hàm chứa bên trong.

    Như vây, ta sẽ có hai nhóm khiếm khuyết ngay từ khi trẻ mới sinh ra, thậm chí là những khiếm khuyết đã có ngay từ khi còn là thai nhi trong bụng mẹ, đó là các trẻ có những khuyết tật về giác quan ( Như khiếm thị, khiếm thính… ) và những trẻ có những khiếm khuyết về nhận thức (chậm phát triển trí tuệ, trẻ tự kỷ và tăng động kém tập trung ).

    THẾ NÀO LÀ TRẺ ĐẶC BIỆT

    Tùy theo các khó khăn của trẻ, người ta chia ra thành các nhóm :

    Trẻ khuyết tật về thể lý ( hay về các giác quan ) là những trẻ Khiếm thị, khiếm thính, bại liệt , bại não. Có những trẻ chỉ có 1 khuyết tật, nhưng cũng có trẻ có nhiều khuyết tật ( Đa tật ).

    Trẻ khuyết tật về tâm lý ( hay về khả năng tư duy, nhận thức ) chia ra 3 nhóm chính là :

    • Trẻ Rối nhiễu tâm lý : Trẻ có những tình trạng bất thường về tâm lý với nhiều mức độ khác nhau như :
    1. Trẻ Trầm cảm : Trẻ  lo lắng, căng thẳng, mất ngủ, khép kín.
    2. Trẻ Kém thích nghi : Hung hăng, quậy phá, nhút nhát, bỏ học, ăn cắp..
    3. Trẻ bệnh Tâm thể : Các triệu chứng bệnh về cơ thể do nguyên nhân tâm lý.
    • Trẻ có nhu cầu đặc biệt hay gọi vắn tắt là Trẻ Đặc biệt. Đây là nhóm trẻ bao gồm các tình trạng:
    1. Trẻ Tự kỷ ( có 5 dạng khác nhau ) là trẻ có khó khăn về giao tiếp, ứng xử.
    2. Trẻ Tăng động giảm chú ý ( Có 3 dạng ) là trẻ có khó khăn về hành vi.
    3. Trẻ chậm phát triển ( Có 3 dang ) là trẻ có khó khăn về nhận thức, trí nhớ .
    4. Trẻ Chậm nói : ( có nhiều mức độ ) Trẻ có khó khăn về ngôn ngữ, phát âm.

    –          Trẻ có khó khăn về học tập :  Là trẻ có khó khăn về những khả năng tiếp thu trong việc học như :

    1.  Trẻ có khó khăn trong việc đọc , viết
    2. Trẻ có khó khăn trong việc tính toán
    3. Trẻ có khó khăn trong việc tiếp nhận các hướng dẫn. 

    SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC DẠNG TRẺ  :

    Tình trạng Nguyên Nhân Biện Pháp Hiệu quả
    Khuyết tật về thể lý Bẩm sinh – bệnh tật và tai nạn Vật lý trị liệu và Giáo dục phục hồi Trẻ có thể hòa nhập với xã hội, học tập như bình thường
    Trẻ rối nhiễu tâm lý Do các sang chấn tâm lý từ bên ngoài Giáo dục nhận thức và trị liệu tâm lý Trẻ có thể hồi phục hoàn toàn sau 1 thời gian
    Trẻ Đặc biệt Bẩm sinh và do các yếu tố nguy cơ sau sinh Giáo dục Can thiệp, Can thiệp sớm và chuyên biệt Trẻ cải thiện tình trạng và có khả năng học tập, giao tiếp trong mức độ nhất định tùy theo tình trạng.
    Trẻ khó khăn học tập Do bẩm sinh và các tác nhân bên ngoài Trị liệu tâm lý và giáo dục với những kỹ thuật tùy theo từng loại khó khăn của trẻ. Trẻ có thể hồi phục và hòa nhập.

    Nhìn bên ngoài thì các trẻ khuyết tật về tâm lý, trẻ đặc biệt và trẻ có khó khăn trong học tập có một số biểu hiện tương tự nhau, nhưng khi đi vào nguyên nhân và biện pháp tác động, chúng ta thấy có những khác biệt rất lớn. Ngay cả với trẻ Đặc biệt, Tuy có những nguyên nhân, biểu hiện tương tự nhau, nhưng lại cần có những biện pháp can thiệp khác nhau. Vì thế, sự phân chia rõ ràng và hợp lý là điều cần phải xác định.

    Như vậy, trẻ Đặc Biệt là một trẻ có những tình trạng khó khăn về ngôn ngữ, hành vi, giao tiếp một cách khác biệt với trẻ bình thường, và cần phải áp dụng những chương trình can thiệp chuyên biệt cho từng nhóm trẻ, thậm chí là cho từng trường hợp mà ta gọi là chương trình Can thiệp cá nhân, để giúp trẻ ổn định tâm lý, phát triển năng lực, hạn chế những khó khăn để có thể hòa nhập theo một chương trình giáo dục đặc biệt trong môi trường giáo dục bình thường và hội nhập trong một mức độ nào đó với cuộc sống trong xã hội.

    Việc Hội nhập xã hội, không có nghĩa là trẻ Đặc Biệt phải được trị liệu cho bình phục để trở nên Bình thường và hòa nhập với các trẻ bình thường khác, mà đó là sự hòa nhập 2 chiều : Trẻ đặc biệt được giáo dục để không còn các HÀNH VI ĐẶC BIỆT, nhưng vẫn có TÌNH TRẠNG ĐẶC BIỆT, trong khi đó ở chiều ngược lại, thì người bình thường ( người lớn và trẻ em ) phải có ý thức CHẤP NHẬN một số hành vi chưa bình thường và cần có những ỨNG XỬ ĐẶC BIỆT với các trẻ này, chứ không thể cư xử với trẻ đặc biệt như mọi trẻ bình thường khác. Nói cách khác, đó là chấp nhận tình trạng đặc biệt của trẻ trong một mức độ phù hợp với cố gắng hội nhập của trẻ đặc biệt và gia đình các em.

    tuvan-tl2

    CÁC DẠNG TRẺ ĐẶC BIỆT

    1. Hội chứng Tự kỷ được dịch từ chữ “Autism Spectrum Disorders”, ( Rối loạn phổ tự kỷ ) là một tình trạng gây ra những trở ngại ảnh hưởng đến sự phát triển của trí não, gây ra những rối loạn thần kinh ảnh hưởng đặc biệt đến khả năng giao tiếp với những người xung quanh.

    Tình trạng này xuất hiện trong tuổi thơ ấu với tỷ lệ 3.4/1.000 trẻ em. Còn theo một thống kê mới nhất tại Mỹ thì tỷ lệ lại gia tăng một cách khủng khiếp là 1/68 trẻ có dấu hiệu tự kỷ ( Về thống kê, có nhiều nguồn và tỷ lệ khác nhau do cách đánh giá và định nghĩa về tự kỷ khác nhau ) Cho đến nay, Tự Kỷ (Autistic Spectrum Disoder) vẫn còn là một trong những tình trạng rối nhiễu tâm lý phức tạp, khó xác định nguyên nhân và cũng khó xây dựng một kế hoạch trị liệu chuẩn mực. Trước đây, người ta thường nghiêng về những rối loạn trong quan hệ giao tiếp để cho rằng, sự thiếu quan tâm hay xa cách của người mẹ lúc ấu thơ là nguyên nhân chính. Từ đó, các biện pháp trị liệu thường đặt trọng tâm vào việc yêu cầu phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc nhiều hơn, và điều này cũng đồng nghĩa với việc “lên án” những sai lầm trong mối tương tác không lành mạnh với trẻ của phụ huynh, tạo thêm nhiều đau buồn không cần thiết. Nhưng đó chỉ là một yếu tố có thể làm tăng nặng thêm một tình trạng Tự Kỷ đã có mầm mống ngay từ khi trẻ sinh ra.

    Sự thiếu quan tâm chăm sóc con như vậy không phải là nguyên nhân chính gây ra tình trạng tự kỷ, nhưng việc quan tâm chăm sóc con một cách hợp lý, có sự đầu tư bằng các kỹ năng cần thiết của bố mẹ trẻ, phối hợp một cách hài hòa việc giáo dục và trị liệu bằng tâm lý và một số thuốc đặc trị lại là một yêu cầu hết sức cần thiết  trong việc trị liệu cho trẻ tự kỷ.

    Tự kỷ là một tình trạng rối loạn tâm lý thần kinh rất phức tạp, và là một rối loạn mang tính cá biệt rất cao, không có một trẻ Tự kỷ nào có tình trạng và khả năng giống nhau, dù chúng đều có những dấu hiệu chung. Cho đến nay, việc xác định nguyên nhân cũng còn là một điều tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhưng nói chung thì đa số đều chấp nhận một số các nguyên nhân sau:

    • Quan điểm về tâm sinh lý : Cho rằng nguyên nhân là do những rối loạn của chức năng tâm lý thần kinh như khả năng nhận thức và tri giác. Từ bẩm sinh trẻ đã mất đi khả năng tư duy . Do những tổn thương về tâm sinh lý của bà mẹ khi mang thai là yếu tố quan trọng gây ra chứng tự kỷ. Dù cũng có những chứng cớ nhưng đây không phải là yếu tố duy nhất.
    • Quan điểm về sinh học : Theo quan điểm này thì người ta cho rằng những bất thường trong cấu trúc não bộ của trẻ là yếu tố gây ra tình trạng tự kỷ. Mặc dù cho đến nay quan điểm này vẫn chưa có được bằng chứng xác thực nào nhưng người ta cũng thấy một số yếu tố về di truyền hay những thai phụ bị bệnh Rubella, ngộ độc thực phẩm hay các chất hóa học thì có nguy cơ sinh con tự kỷ.

    Giáo dục can thiệp trẻ tự kỷ :

    Đây là một lĩnh vực với rất nhiều biện pháp kỹ thuật khác nhau, từ đơn giản trong kỹ thuật và công cụ cho đến rất phức tạp. Nhìn chung có 3 lĩnh vực được quan tâm trong rất nhiều các phương pháp khác nhau :

    • Lĩnh vực phát triển kỹ năng: Về ngôn ngữ, cải thiện hành vi, giao tiếp bằng các phương pháp Can thiệp sớm trong các hoạt động giáo dục.
    • Lĩnh vực cải thiện khả năng thần kinh bằng các phương pháp y học từ các biện pháp châm cứu, xoa bóp đến sử dụng các thiết bị y tế.
    • Lĩnh vực cải thiện thể trạng và tác động đến thần kinh bằng các kỹ thuật sinh học.

    Ngoài ra còn có các biện pháp sử dụng các con vật ( chủ yếu là chó, ngựa và cá heo ), các liệu pháp về âm nhạc, ánh sáng, nước và hội họa để tác động thêm. Điều này vừa chứng tỏ sự quan tâm hết sức tích cực của gia đình và xã hội đến tình trạng khó khăn này. Nhưng cũng nói lên những khó khăn, phức tạp trong việc cải thiện tình trạng cho trẻ Tự kỷ, vì cho đến nay chưa có một phương pháp can thiệp, giáo dục hay trị liệu nào có thể hoàn toàn giúp cho một trẻ tự kỷ trở về tình trạng phát triển bình thường. Vì vậy mà vẫn còn rất nhiều người còn mơ hồ về nhận thức. Họ chưa xác định  hay chưa muốn tin đây là một tình trạng rối loạn về thần kinh và tâm lý khó có thể hồi phục. Họ vẫn cố gắng bằng mọi cách để tìm ra các kỹ thuật hòng tìm cách “điều trị” hay “chạy chữa” cho trẻ tự kỷ có thể hồi phục hoàn toàn để trở về với cuộc sống bình thường.

    1. Hội chứng rối loạn hiếu động kém chú ý (Attention-Deficit-Hyperactivity Disorder) ở trẻ có khó khăn về hành vi là một tình trạng có những tổn thương về thần kinh mang tính di truyền mà nguyên nhân cơ bản là sự thiếu hụt về liều lượng nhũng chất dẫn truyền trong các tế bào não. Tình trạng rối loạn này còn có nhiều tên gọi khác nhau như:” hội chứng trẻ hiếu động” ,” không tập trung có kèm hoặc không kèm theo giảm sự chú ý” , “rối loạn hiếu động kém tập trung , “trẻ tăng động Giảm chú ý”

    Căn cứ trên cách biểu hiện người ta chia ra 3 nhóm trẻ :

    1. Nhóm thiên về tình trạng Hiếu động nhưng không kém về khả năng tập trung hay chú ý.
    2. Nhóm thiên về khả năng kém chú ý, thiếu tập trung nhưng không có hay ít có tình trạng hiếu động.
    3. Nhóm có cả hai tình trạng hiếu động lẫn kém tập trung.

    Đây là một loại rối loạn tính khí có nguyên nhân thần kinh, thường gặp ở trẻ em, chiếm 1,7% trong trẻ em. Trẻ không tập trung & hiếu động thường được chẩn đoán phát hiện ở lứa tuổi 4-6 tuổi, và bé trai bị nhiều hơn bé gái gấp 4-10 lần. Tuy nhiên, sau này tỉ lệ rối loạn này ở bé gái cũng tăng rõ rệt. Hội chứng này có thể do các nguyên nhân sau:

    Nguyên nhân thực thể :

    • Do Bệnh lý ở da, rối loại thị giác hay thính giác, do phản ứng với một số loại thuốc, ngộ độc chì.v.v
    • Tai biến lúc sinh: như sinh non tháng, thiếu oxi lúc sinh (bị ngạt) làm ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của trẻ.
    • Do di truyền: Nếu trong gia đình có thành viên mắc chứng này thì trẻ cũng có thể gặp phải. Sau này khi lớn lên thì 1/3 trẻ có thể có con mắc chứng này.
    • Rối loạn chức năng của não : Trẻ có những khó khăn về khả năng kiểm soát các hành vi của não phải ,

    Nguyên nhân tâm lý:

    Trẻ lớn hay trưởng thành nếu có tình trạng lo lắng kéo dài, rối loạn tâm thần, bị cưỡng bức, lạm dụng tình dục, gặp khó khăn trong học tập, lục đục trong gia đình cũng có thể đưa đến các rối loạn này.

    Các nguyên nhân khác:

    Các nhà nghiên cứu nhận thấy những vùng não của trẻ em và người lớn mắc chứng ADHD,  có sự kém hoạt động trong việc chi phối kiểm soát các cử động và sự tập trung, và cũng nhận thấy rằng những người này có mức dopamine thấp hơn người bình thường. mà dopamine là chất dẫn truyền thần kinh giúp kích thích những vùng não này.

    – Tiếp xúc với một số độc chất trong thời kỳ mang thai: như thuốc lá, rượu, ma túy, vì những chất này làm giảm sản xuất dopamine ở trẻ em và các độc chất trong môi trường như dioxine, hydrocarbure benzen…cũng làm tăng nguy cơ trẻ sinh ra bị hiếu động, kém tập trung.

    – Tiếp xúc với kim lọai nặng như chì

    – Rối loạn giấc ngủ: người ta nhận thấy, trẻ ngủ ngáy dễ bị chứng rối loạn không tập trung-hiếu động gấp 2 lần so với trẻ không ngủ ngáy.

    – Chấn thương đầu, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương.

    Có nhiều mức độ hiếu động kém chú ý khác nhau. Có những trẻ chỉ hơi thiếu tập trung, hoặc chỉ khó kiểm soát được hành vi của mình. Các em này có thể theo học ở các trường bình thường với một số biện pháp can thiệp tại gia đình.  Nhưng cũng có những trẻ bị nặng hơn, sự mất kiểm soát bản thân diễn ra mọi lúc mọi nơi, các em này cần can thiệp trong các lớp đặc biệt với các phương pháp chuyên biệt trong một thời gian tủy theo mức độ và tác động của các biện pháp can thiệp.

    1. Chậm phát triển trí tuệ (Mental Retardation) là những khiếm khuyết hay chậm phát triển trí não xẩy ra ở trẻ em dưới 18 tuổi. Có tỷ lệ từ 2,5 – 3% dân số. Ðây là một rối loạn khá phổ biến. Các em có một số giới hạn về chức năng trí tuệ và về các khả năng khác như là đối thoại, tự chăm sóc, và hành xử xã hội. Một số em có thể học tập đến một giới hạn nào đó. Một số khác thì không thể theo học được ở cả những mức độ thấp nhất ( Biết đọc biết viết ). Các em cần được hướng đẫn để có thể tự chăm sóc bản thân, vệ sinh cơ thể trong một mức độ đơn giản nhất, chứ không nên cố gắng tập luyện cho các em này những kiến thức văn hóa mà các em không thể nào “tiêu hóa” nổi.

    Nguyên nhân

    Có nhiều nguy cơ đưa tới chậm khôn  nhưng 60% trường hợp nguyên nhân chưa được xác định. Sau đây là một số nguy cơ thường thấy.

    • Nguyên nhân di truyền.

    Rối loạn di truyền thông thường nhất và được biết nhất là Hội Chứng Down mà trước đây gọi là Mongolism với nhiễm thể 21 bất bình thường; rồi đến các tình trạng chậm phát triển khác như : Trẻ khiếm khuyết nhiễm thể giống tính X; trẻ có các hội chứng “tiếng kêu con mèo” Cri du Chat, Turner, Klinefelter … Đều là những tình trạng chậm phát triển trí tuệ nặng, hầu như không có khả năng học tập.

    2-Bất bình thường trong khi có thai.

    Thai nhi không phát triển bình thường trong thời gian còn ở trong bụng mẹ. Có thể là do sự phân bào bị rối loạn. Hoặc khi người mẹ ghiền rượu trong ba tháng đầu của thai nghén; mẹ mắc bệnh nhiễm ( rubella, cytomegalovirus); dưới tác dụng của dược phẩm, hóa chất, phóng xạ; mẹ bị cao huyết áp, suy dinh dưỡng. Mẹ có thai mà suy dinh dưỡng cộng với môi trường sống tồi tệ có thể là nguy cơ dẫn đến chậm khôn thường thấy nhất trên thế giới.

    3-Khó khăn khi sinh :

    Sinh thiếu tháng, xuất huyết, không đủ dưỡng khí, chấn thương não trong khi sanh.

    4- Nguyên nhân sau khi sinh .

    Não bị nhiễm vi khuẩn, virus, hóa chất ; suy dinh dưỡng trầm trọng, kém chăm sóc y tế, tiếp cận chất độc như chì, thủy ngân trong thực phẩm (cá). Trẻ sơ sinh bị bệnh cường tuyến giáp, ho gà, thủy đậu, ban sởi mà không được điều trị chu đáo cũng là những nguy cơ của chậm khôn.

    5- Yếu tố tâm lý xã hội.

    Trẻ em lớn lên trong khung cảnh không có tình người, không có sự tác động hay giáo dục cơ bản,  thiếu kích thích diễn tả ngôn ngữ, cảm xúc, thính thị giác cũng thường chậm trễ về kiến thức, hành vi xử thế.

    PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP:

    Cách đây khoản 20 năm, thì hầu như chưa có bao nhiêu người biết về tự kỷ chứ chưa nói đến là các phương pháp can thiệp. Thế rồi cho đến nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin thì những phương pháp khác nhau cũng phát triển một cách nhanh chóng, nếu loại trừ những phương pháp phản khoa học, hay chỉ có hiệu quả với những trường hợp chưa chắc là tự kỷ, hiếu động … thì cho đến nay người ta đã thống kê được khoảng 27 phương pháp khác nhau. Cũng vì thế mà vẫn còn rất nhiều người từ các chuyên gia đến các phụ huynh hay giáo viên vẫn còn gắn chặt việc can thiệp cho trẻ vào một vài kỹ thuật hay phương pháp nào đó.

    Nhưng thực ra, nếu chúng ta có một tầm nhìn khách quan hơn, thì điều đầu tiên mà chúng ta thấy được là bất kỳ phương pháp nào, từ ABA/VB, PRT, RDI, ESDM, Floortime cho đến TEACH , từng bước nhỏ… đều có thể rút ra đươc những điểm giống nhau :

    1. Mục tiêu dạy : Cho dù có dùng những thuật ngữ khác nhau thì cũng đều đặt mục tiêu theo từng cấp độ, chỉ cao hơn khả năng của trẻ một chút để các bé có cố gắng vượt lên chứ không bao giờ quá khó khiến trẻ phải nỗ lực mới đạt được.
    2. Phương pháp dạy : Tất cả các phương pháp đều có phần nhắc nhở hay gợi ý cho trẻ. Dù tên gọi khác nhưng bản chất thì giống nhau : Đó là sự làm mẫu để trẻ có thể đoán biết và cầm tay chỉ việc rồi giảm dần . Hay là sự nhắc nhở dựa vào những gợi ý của môi trường, như ban đầu thì đặt gần, rồi tăng dần khoảng cách .
    3. Các yếu tố tác động :
    • Yếu tố khích lệ ; Các chương trình đều có sự khích lệ một cách đa dạng , từ việc tương tác với trẻ, cho đến việc khen thưởng, cho vật hay điều trẻ muốn.. điều này khiến cho trẻ thấy mình có năng lực nhiều hơn.

    Ví dụ như hai mẹ con chơi trò chuyền bóng mà trẻ rất thích, thì khi trẻ thực hiện được một nội dung học nào đó (trẻ nhìn sang mẹ  hoặc trẻ nói “mẹ chuyền bóng cho con” – tùy mức độ của trẻ), mẹ sẽ truyền bóng. Việc được chơi với mẹ, được đến lượt chuyền bóng chính là yếu tố khích lệ cho con.

    • Yếu tố tương tác một cách phù hợp, và tận dụng các cơ hội dạy tự nhiên .Các tương tác phù hợp gồm nhiều yếu tố. Người can thiệp thường nói chuyện với trẻ theo qui tắc “cộng 1”, tức là hơn mức trẻ giao tiếp một chút.

    Ví dụ, nếu trẻ mới chỉ nói được từ đơn thì người can thiệp chỉ nên dùng từ đơn và cụm 2 từ. Cụ thể, thay vì hỏi “con muốn đọc sách không”, người can thiệp chỉ cần chỉ vào quyển sách, dùng giao tiếp mắt và cử chỉ khuôn mặt để hỏi “đọc sách”, rồi khi con đã bắt đầu nói được cả câu thì người can thiệp cũng nâng mức giao tiếp của mình thêm để vừa dễ hiểu cho con, lại cũng là người làm mẫu mức giao tiếp cao hơn để con học theo.

    1. Kỹ thuật tiệm tiến : tức là sự đan xen các kỹ năng trẻ đã học được với các kỹ năng mới đang học . Một phần để nhắc lại các điều mà trẻ đã học, nhưng chưa thật sự nhớ kỹ nhưng cũng để trẻ dân dần tiếp thu được các kỹ năng mới.
    2. Yếu tố nương theo trẻ : Đây là một yếu tố rất cần thiết và quan trọng đó là dựa vào sở thích của trẻ dể trẻ thích học hơn. Ví dụ, nếu trẻ thích Lego, có thể dùng Lego để dạy màu sắc, dạy bắt chước, dạy đếm, dạy chơi luân phiên.

    Việc  chơi của trẻ: rất nhiều trẻ lúc đầu chưa chú ý hoặc chơi không phù hợp với đồ vật. Các phương pháp đều bắt đầu với các trò chơi không có đồ chơi, chỉ tương tác giữa bố mẹ/người can thiệp với trẻ để trẻ xây dựng mối quan hệ, và hình thành những kỹ năng giao tiếp đầu tiên như giao tiếp mắt. Hanen gọi là “peole play”, ESDM thì có “sensory social routines” và rất nhiều hoạt động của RDI. Các trò chơi như ngựa phi trên chân bố mẹ, cưỡi ngựa trên lưng bố mẹ, đuổi bắt, chơi với loại ghế bập bênh v.v. thường hấp dẫn trẻ vì đáp ứng được những nhu cầu giác quan của trẻ (có trẻ thích chạy, thích xoay, v.v.) Các chương trình này cũng dễ kết nối với con hơn vì chỉ có tương tác hai chiều giữa con và bố mẹ/cô giáo. Khác với chơi trò chơi còn có sự tham chiếu với vật khác ngoài tương tác giữa con và bố mẹ/cô giáo. Sau khi trẻ đã hứng thú chơi và tương tác với bố mẹ, thì bắt đầu lồng vào chơi đồ chơi phù hợp chức năng, rồi lên chơi giả vờ, v.v.

    1. Loại bỏ các yếu tố xao nhãng: nhiều trẻ tự kỷ có kèm theo rối loạn giác quan, nên khả năng lọc các đầu vào giác quan của trẻ kém hơn. Đôi khi chỉ tiếng ro ro rất nhỏ của tủ lạnh, hoặc loại đèn không phù hợp cũng khiến trẻ không tập trung được. Thậm chí nếu người can thiệp hăng hái nói nhiều quá cũng khiến trẻ quá tải và không có cơ hội giao tiếp, v.v.. Vì vậy thì người can thiệp/bố mẹ thương phải quan sát để biết những đặc điểm riêng của con để điều chỉnh phù hợp, tạo cho con có một môi trường an toàn, thoải mái để tập trung học.

    Ngoài các yếu tố trên thì tất các phương pháp đều nhắm đến mục tiêu là Thiết lập mối quan hệ: Các phương pháp như RDI, PRT, ABA/VB, ESDM, Floortime đều bắt đầu từ việc giúp trẻ xây dựng mối quan hệ yêu thương, tin cậy với người dạy. Chỉ khi trẻ tin tưởng người dẫn dắt, có động lực để học hỏi khám phá, thì quá trình học của trẻ mới chủ động và tích cực, trẻ phát triển với tốc độ tốt hơn. Và người có thể thiết lập mối quan hệ tốt nhất với trẻ chắc chắn là bố mẹ, nên các chương trình can thiệp tốt đều nhắm tới việc truyền sức mạnh (kiến thức và kỹ năng) để bố mẹ trực tiếp can thiệp cùng với con và cùng với cả nhóm can thiệp.

    Ngoài ra  Trẻ còn phải tin tưởng và làm theo sự chỉ dẫn của người can thiệp, tham gia vào tương tác một cách có ý nghĩa. Đương nhiên không phải nghe theo một cách máy móc, áp đặt như những hiểu lầm thường có, mà sự hợp tác để đạt được mục tiêu học. Ngược lại, người dạy cũng tôn trọng và nương theo trẻ, và mở ra các biến thể để trẻ linh hoạt, cũng như tạo điều kiện cho trẻ được khởi xướng. Việc này không dễ, nhất là giai đoạn đầu can thiệp. Vì thường ở các gia đình có trẻ tự kỷ, trẻ gần như kiểm soát nhịp sinh hoạt của gia đình. Không phải trẻ cố tình gây ra điều đó, mà vì những rối loạn về ăn ngủ, các hành vi không phù hợp do con không thể giao tiếp hiệu quả, rồi căng thẳng trong gia đình, v.v.

    Các chương trình can thiệp này đều nhắm tới việc giúp trẻ khởi xướng hoạt động, chủ động tương tác, giao tiếp với mọi người. Các chương trình can thiệp cũng cần giúp trẻ làm chủ và lên kế hoạch cho các hoạt động của mình để giúp trẻ khắc phục về chức năng điều hành Ví dụ khi trẻ kết thúc một hoạt động, thì trẻ được phép chọn cho mình hoạt động tiếp theo, rồi dần lên kế hoạch lớn hơn. Trẻ có nhiều cơ hội khởi xướng các hoạt động, xây dựng các mối quan hệ tự chủ hơn.

    Một khiếm khuyết khác ở trẻ là trẻ thường cứng nhắc, bó hẹp các hoạt động, và khái quát kiến thức không tốt. Nên bất kể chương trình dạy nào cũng bắt đầu với một mục tiêu, sau khi trẻ đã đạt được mục tiêu đó thì mở rộng ra các biến thể của chính mục tiêu đó trước khi sang một mục tiêu mới để đảm bảo trẻ có thể linh hoạt sử dụng kiến thức vừa học được. Thống nhất nội dung dạy ở các môi trường khác nhau (trường học, ở nhà, v.v.), giữa những người dạy (cô giáo, phụ huynh) để cùng hỗ trợ phù hợp cho tiến triển của trẻ.

    Như vậy, chúng ta thấy rằng ngay cả khi áp dụng các phương pháp, điểm cốt yếu không phải là dựa vào từng đặc điểm của phương pháp và chỉ bó hẹp trong phương pháp đó mà là dựa vào 2 yếu tố vô cùng quan trọng đó là sự nhận biết một cách đầy đủ về đứa con và sự tác động tích cực của gia đình .

    Một nghiên cứu vừa được thực hiện trong năm 2015 để đo lường hiệu quả của chương trình đào tạo phụ huynh về các chiến lược quản lý hành vi cho trẻ em mắc chứng tự kỷ. Cuộc nghiên cứu được thực hiện trên 180 trẻ em mắc chứng tự kỷ, trong độ tuổi từ 3-7 và cha mẹ của các em. Phụ huynh của 180 trẻ tự kỷ này được chia làm 2 nhóm.

    Nhóm thứ nhất được tham dự 1 chương trình đào tạo về can thiệp hành vi. Chương trình đào tạo gồm 11 buổi đào tạo từ 60-90 phút, thực hiện trong vòng 16 tuần với 1 nhà chuyên môn. Họ được hướng dẫn các chiến lược quản lý hành vi đối với các hành vi không phù hợp như cơn bùng nổ, cáu giận, tự gây thương tích và từ chối hợp tác. Sau đó, phụ huynh được hỗ trợ thông qua việc tư vấn qua điện thoại trong vòng 2 tháng kể từ khi kết thúc khoá học.

    Nhóm phụ huynh thứ hai (gồm 91 người) được tham gia 1 chương trình khác, có tên là “đào tạo phụ huynh” gồm 12 buổi học và 1 buổi làm việc tại gia đình. Trong suốt các buổi học này, phụ huynh được dạy về các nội dung như thế nào là tự kỷ, các dịch vụ hỗ trợ trẻ tự kỷ, nhưng không có nội dung nào liên quan đến quản lý hành vi.

    Trước và sau đợt đào tạo cho phụ huynh, các chuyên gia thực hiện đánh giá về hành vi không phù hợp ở trẻ sử dụng hệ thống thang đo được tiêu chuẩn hoá.

    Kết quả là toàn bộ nhóm trẻ đều cho thấy sự cải thiện, tuy nhiên, nhóm trẻ có bố mẹ được đào tạo chuyên về quản lý hành vi đã có sự tiến bộ tốt hơn rõ rệt.

    Tiến sĩ Kara Reagon – 1 đại diện của Autism Speaks nhận xét “Đây thực sự là một bước tiến lớn, nghiên cứu này cho chúng ta thấy rằng việc chỉ dạy cho cha mẹ hiểu về tự kỷ là chưa đủ. Họ còn cần được trợ giúp tại nhà và trong cộng đồng và đang có một nhu cầu rất lớn trong việc triển khai các khoá đào tạo hiệu quả hơn dành cho phụ huynh”.

    Như vậy, rõ ràng là rất cần sự tham gia của các phụ huynh trong các khóa học, không phải chỉ là để biết về chứng tự kỷ, biết về các trẻ đặc biệt mà còn phải nhận biết các kỹ năng tác động vào đứa con của mình với sự hỗ trợ của các nhà chuyên môn . Để can thiệp một cách có hiệu quả phải có sự phối hợp một cách tích cực của phụ huynh – giáo viên – chuyên viên, vì không phải chỉ là những kiến thức kỹ năng tại nhà trường mà là chính trong môi trường sống mà đứa trẻ phải được phát triển một cách đầy đủ nhất . Đó chính là gia đình các em .

    CVTL LÊ KHANH