Tết Nguyên Đán là một nghi lễ cổ truyền với rất nhiều tục lệ khác nhau, từ việc gói bánh dày , bánh chưng , làm mâm cỗ cho đến việc trang hoàng nhà cửa , mua sắm …. Cho đến nay , không nói đến những tục lệ đã mai một theo thời gian như dựng cây nêu , hoặc bị cấm vì sự an toàn như việc đốt pháo . Thì một trong những tục lệ ai cũng thích, cũng muốn duy trì nhưng có lẽ 10 người thì hết 9 là vận dụng không đúng ý nghĩa đích thực của nó.
Ai cũng biết lì xì là việc tặng một số tiền mới, giá trị nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn là mừng cho người nhận được thêm một tuổi. Đặc biệt với các cháu nhỏ thì nó còn mang ý nghĩa lời khen thưởng vì đã đến chúc thọ người lớn, và được mừng cho một phong bao tượng trưng cho sự may mắn.
Cũng như nhiều tục lệ , thì việc mừng tuổi đã có từ rất lâu và thường có nguồn gốc từ bên Tàu ! Tuy nhiên, cũng như Tết Nguyên Đán thì hầu hết các tục lệ xuất phát từ Trung Hoa khi sang đến Việt Nam đều bị hay được biển đổi cho phù hợp với tính cách của người Việt. Lì xì cũng thế, từ chuyện bố mẹ gói những đồng tiền xu bỏ vào phong bao để đầu giường trẻ em để phòng chống yêu quái vào buổi tối giao thừa của Tàu, khi qua Việt Nam thì lại biến thành một món tiền nhỏ tặng cho con cháu để mừng tuổi vào sáng ngày mùng Một Tết. Nhưng theo thời gian và cũng theo tinh thần thực dụng của người Việt, thì việc mừng một vài tờ tiền mới để lấy hên ( tờ tiền đó sẽ để dành không tiêu ) của ông bà , bố mẹ tặng cho con cháu đã dần dần biến thành một việc “cho tiền càng nhiều càng tốt” cho trẻ . Từ đó việc lì xì bị biến tướng với những ý nghĩa tích cực hay tiêu cực.
Về mặt tích cực, thì nhiều người xem việc lì xì tiền cho trẻ là một cơ hội để tập cho trẻ biết tiêu tiền, và bố mẹ sẽ “khuyến cáo” hay “ răn đe” thậm chí là “chỉ đạo” cho trẻ phải mua cái gì, không được mua cái gì, không được dùng tiền mang đi lắc bầu cua , chơi bài hay mua đồ chơi “tầm bậy tầm bạ” mà phải dùng để mua học cụ, sách vở …dù rõ ràng đó là tiền túi của trẻ . Hay tốt hơn hết là “ để dành” và trẻ buộc phải bỏ ống tiết kiệm dù không muốn chút nào.
Về mặt tiêu cực, thì nhiều người lại xem đây là một cơ hội để tập cho con biết “làm tiền” ông bà hay họ hàng người quen bằng nhiều chiêu khác nhau. Trẻ sẽ thi nhau chúc tết người lớn bằng những câu sáo rỗng, liếng thoắng, chỉ với mục đích là được lì xì, và phải lì xì bằng “tiền to” chứ không thèm tiền lẻ ! Người lớn cũng “ tranh thủ” để khoe tiền hay có khi lại là một hình thức hối lộ ngầm cho con của các sếp!
Chính vì những biến thể của việc Lì xì mà từ một phong tục tốt đẹp, trong nhiều trường hợp đã biến thành những chuyện không hay, khi đứa trẻ tự nhiên lại có trong tay một số tiền khá lớn, để rồi một là tiêu xài phung phí, hai là lại ấm ức vì bố mẹ đã “thu gom” hết sạch với các lý do rất “chính đáng”.
Thực ra việc tập cho con biết quản lý tiền, hay biết tiêu tiền đúng cách không phải là đợi đến Tết, khi con có một món tiền lớn mới “ra tay” để rèn luyện. Vì cho dù với mục đích tốt hay không, thì việc chỉ đạo hay góp ý với con về cách tiêu tiền đã không đúng với nguyên tắc giáo dục trẻ bằng sự yêu thương và tôn trọng. Vì việc tập cho con biết giá trị đồng tiền, biết tiêu và quản lý tiền là một tiến trình lâu dài và thường xuyên trong năm.
Có những người thì thay vì cho Tiền, mà lại lì xì cho trẻ một vật phẩm gì đó. Cho dù vật phẩm đó có giá trị tốt đẹp đến bao nhiêu thì nó cũng không đem lại cho Trẻ những ý nghĩa và giá trị như một chiếc phong bao lì xì !
Vì thế, để có thể gìn giữ bản sắc dân tộc qua các tục lệ tốt đẹp của ngày Tết Nguyên Đán , các bậc cha mẹ và cả người lớn chúng ta, nên vận dụng chuyện lì xì theo đúng ý nghĩa giá trị của hoạt động này. Việc này không những giúp cho trẻ hiểu được các giá trị truyền thống mà còn giúp cho chúng ta bớt đi một “nỗi lo cạn túi” nếu chẳng may có khá nhiều “con cháu” hay những “món nợ” ân tình phải trả qua những chiếc phong bao ngày Tết.
Bấy lâu nay, tình trạng thiếu hụt kỹ năng sống của các em HS đã được báo động từ khuya.. vì thế nên mọi người, từ phụ huynh cho đến nhà trường đã xúm vào tìm mọi biện pháp bù đắp, xây dựng, cải thiện, phát triển đủ các kiểu cho HS về kỹ năng sống. Từ những trò vớ vẩn nhất như tập đi trên miểng chai, học đứng cân bằng trên con lăn..v.v ..cho đến việc xuất bản hàng loạt những cuốn sách giáo khoa, dạy dỗ các em như các môn học lý thuyết hàn lâm khác, mà không hề nghĩ rằng khi đưa những giáo trình và bài giảng đạo đức vào thì đã làm cho kỹ năng sống của trẻ chỉ có từ chết đến bị thương.
Một trong những hoạt động ưa thích của các trường là mời các chuyên gia “hùng biện” về KNS về trường để tổ chức một vài chuyên đề với tiêu chí: Không quan tâm đến anh nói gì, miễn là phải lấy thật nhiều nước mắt của các em là được ! Giá trị của chuyên gia được đo bằng số lượng nước mắt và tiếng khóc của học trò. Ngược lại, cũng có những “ chuyên gia” gây cười – dạy KNS mà giống như “tấu hài” – Các em cười ầm ỹ vì những mảng, miếng chiêu trò hay vì những câu nói gây sốc, là thành công.
“Thích thì chiều” thế là các chuyên gia “ chuyên khai thác bi kịch” đã tập trung vào các đề tài như lòng hiếu thảo, sự yêu thương gia đình, cha mẹ, thầy cô , xa hơn nữa là trách nhiệm với tổ quốc, đồng bào … với mục tiêu duy nhất là biến những em cá biệt, cá tính, ngỗ nghịch, chống đối, lười biếng .. trở thành những đứa trẻ ngoan. Những chuyên gia này rất giỏi về việc khai thác “tâm lý đám đông” vì thế nếu để họ đứng trước một đám đông các em HS, càng đông càng tốt thì những biện pháp tác động của họ càng có hiệu quả , ngược lại nếu bảo họ chia sẻ, khơi gợi những giá trị bản thân cho một nhóm nhỏ hay cho một cá nhân thì có khi sẽ mất tác dụng ! Điều này lại rất phù hợp với xu thế “dạy KNS” theo phong trào. Các trường cứ gom hết HS lại ngồi ở sân trường, chuyên gia thì đứng trên sân khấu và trổ tài hùng biện, khiến cho các em thấy mình thật nhỏ bé, thật vô dụng, thật khiếm khuyết – Các em không có lòng nhân từ, thiếu sự tôn kính, quên mất công ơn trời biển của các đấng sinh thành …và thế là các em thi nhau khóc …còn các thầy cô đứng bên ngoài quan sát thì lại có khi cười !
Lẽ ra, việc dạy hay nói một cách đúng đắn, là việc hướng dẫn các hoạt động phát triển kỹ năng sống cho HS, nên và phải là những hoạt động thực hành, thông qua những biện pháp sinh hoạt, thảo luận, làm việc nhóm với những kỹ thuật tiệm tiến, đi từng bước và khuyến khích, nhắc nhở các em áp dụng tại gia đình trong các sinh hoạt hàng ngày trong một thời gian dài. Thế nhưng, để làm được điều này thì phải có một đội ngũ các giáo viên, được huấn luyện bài bản, hay các hướng dẫn viên biết tổ chức các hoạt động xây dựng nhóm (Team Building) từng bước tác động trong một thời gian dài…. Hoặc thông qua các phong trào giáo dục thanh thiếu niên. Đây là điều không phải trường nào cũng có thể áp dụng, và nhất là khi mà mục tiêu tổ chức các hoạt động giáo dục KNS trong nhà trường chỉ là để “ báo cáo thành tích” chứ không hề nghĩ đến việc khởi tạo lòng tự tin, giúp trẻ nhận biết giá trị bản thân để có một cuộc sống tích cực nơi mỗi HS. Mặc dù, điều đó luôn luôn được nói đến như một giá trị cao quý, nhưng thực tế thì “ nói vậy mà không phải vậy”. Bởi vì, mời một chuyên gia gây khóc hay gây cười – đến nói chuyện gây phong trào một năm vài lần, bao giờ cũng đơn giản, và chi phí thấp hơn so với việc tổ chức một hoạt động sinh hoạt phát triển KNS thường xuyên trong nhà trường. Không những thế, với hình ảnh hoành tráng cờ đèn kèn trống, bandroll , khẩu hiệu tứ tung và nhất là hình ảnh các em mắt đỏ hoe, khóc sùi sụt …bao giờ cũng có giá trị hơn hẳn những kết quả không thấy được trong sự biến chuyển nơi tâm lý các em.
Chính vì thế, dù hoạt động giáo dục KNS đã “ phổ cập” trong từng cấp học, từ MG đến trung học phổ thông trong cả chục năm nay, thì tình trạng “ bạo lực học đường” ngày càng tăng, số lượng các trẻ bị chấn thương tâm lý, hay trở nên rối nhiễu tâm lý ngày càng nhiều. Các phòng tư vấn tâm lý thường xuyên tiếp nhận các trẻ từ tiểu học đến trung học, có tình trạng lười biếng, nhút nhát, lì lợm hay cãi lại, hỗn hào thậm chí là đánh lại cha mẹ, hoặc có tình trạng chán học, bỏ học, sống thu mình, có dấu hiệu trầm cảm…. Điều đó đã chứng minh cho sự bất lực hay thiếu hiệu quả của hai hoạt động cần thiết cho các em HS trong nhà trường là công tác Hướng dẫn kỹ năng sống và tư vấn tâm lý học đường.
Một điều đáng tiếc, hay có thể nói là bất hạnh cho các em là cả hai hoạt động này đều được “quan tâm đúng quy trình” bằng việc tổ chức những hoạt động giáo dục KNS theo phong trào, và tổ chức các hoạt động tư vấn tâm lý học đường theo kiểu lập tổ chỉ đạo “hữu danh vô thực” để dạy dỗ HS bằng những hình thức sáo rỗng ! Những người có thẩm quyền và trách nhiệm trong ngành giáo dục đã biến hai nhu cầu thiết yếu của HS trở thành những hình thức “tuyên truyền đạo đức giả” chứ không phải xây dựng được những biện pháp “phòng bệnh hơn chữa bệnh” cho các em . Lẽ ra các em phải được bồi dưỡng những giá trị tinh thần, ý thức về năng lực bản thân có được sự linh hoạt thích nghi và ứng phó với một xã hội đầy biến động, đầy rẫy những tiêu cực … qua những hoạt động thực hành với sự lắng nghe và tôn trọng, thì các “sân khấu KNS” của các chuyên gia “Bi kịch” hay “tấu hài” lại biến các em thành những tội đồ, phải cúi mình khóc lóc, rên rỉ với sự xám hối ăn năn những lỗi lầm mà mình đã gây ra cho người lớn, cho các bậc bề trên, để sau đó sẽ hứa hẹn sẽ thay đổi , và thường là sau một đêm, sau vài buổi thì những lời lẽ đạo đức có cánh của các chuyên gia cũng sẽ bay theo mây trời cùng những giọt nước mắt và những lời hứa hẹn của các em với các bậc phụ huynh.
Từ trước tới nay, hai thủ phạm thường được chỉ mặt đặt tên là Games Online và mạng xã hội đã khiến cho trẻ trở nên hư hỏng mà có khi đó lại là “lối thoát hay trở những nơi nương náu trước sự tấn công phũ phàng vào các giá trị sống do chính các thầy cô, cha mẹ đã vô tình hay cố ý thực hiện bằng những lời nói và cách sống “đạo đức giả” của mình trước mặt các em. Ngoài ra việc thiếu các “ sân chơi” hiểu theo cả 2 nghĩa đen và bóng ! cũng góp sức trong việc nhốt các em trong các bức tường, mà chỉ có thể thoát ra bằng các hình thức “ không gian ảo” ! Trong khi đó, có thể nói một cách không cường điệu chút nào, thì chính việc tổ chức các “ sân khấu bi – hài cho hoạt động KNS”đã góp phần không nhỏ vào việc hủy hoại chút lòng tin còn sót lại nơi các em, và cũng biến các em thành những “kịch sĩ” nghiệp dư để khóc đó, cười đó và …quên đó ! Các em thay vì tôn trọng những giá trị sống, sẽ bắt đầu vô cảm trước nó, bởi vì các em đã bị những chiêu trò của các nhà giáo dục làm cho trở nên coi thường những điều cần tôn trọng . Các em sẽ học được rất nhanh sự giả dối, tính đạo đức giả đang được rao giảng mà không hề biết rằng mình đang từng bước “vong thân” !
Khi các em trở nên những “tội đồ” thì từ trong gia đình đến nhà trường chi biết đối phó bằng việc “ đuổi học” hay có khi lại mời công an vào cuộc , lôi các em vào đồn và biến các em thành tội nhân hay nạn nhân ! Còn các biện pháp “tội nghiệp” của các bậc cha mẹ chỉ là “ trừng phạt” “dụ dỗ” và “năn nỉ” ! Sau đó là đưa đến các chuyên viên tâm lý nhờ giảng moral cho các em hiểu ! Còn việc hiểu và áp dụng được các yếu tố giáo dục kỹ năng sống tại gia đình, thì ngay chính các PH cũng còn mù mờ để chỉ còn biết “ dạy con trong hoang mang” !
Xin hãy dung tha cho các em bằng việc thôi đi những trò tấu hài dối trá mạo danh những giá trị đạo đức và xin hãy tôn trọng các em, để khởi tạo cho các em những giá trị làm người của một con người tử tế khi bước chân vào đời chứ không phải hứa hẹn sẽ thành người tử tế khi đã đi đến cuối nẻo đường đời !
Chuyên gia Lê Khanh nhận định, học sinh tự tử có thể bắt nguồn từ những lý do khác nhau và bố mẹ thường bỏ qua những biểu hiện “báo động” từ những thay đổi trong hành vi, cách sống.
Hàng loạt vụ học sinh tự tử xảy ra, mới nhất là vụ một học sinh nữ đã treo cổ tự tử trong lớp học tại trường THCS Tân Lâm (Thạch Tân, Thạch Hà) khiến nhiều bậc phụ huynh, hoang mang lo lắng.
Trao đổi với PV báo Người Đưa Tin, chuyên gia tâm lý Lê Khanh, Giám đốc chi nhánh công ty Giáo dục Kidstime tại TP.HCM nhận định: “Việc một người phải chọn giải pháp tự kết liễu đời mình, nhất là với các em học sinh, đã cho thấy một sự gãy đổ nặng nề về nhận thức trong tâm hồn với rất nhiều lý do khác nhau – từ việc chạy trốn những thử thách trong cuộc sống mà các em không đủ sức đối diện cho đến việc xem đó là một hành vi “trả thù” với những người đã đè nén, áp bức một cách bất công mà các em không thể chống lại”…
Cũng theo lý giải của chuyên gia Lê Khanh, chúng ta thường cho rằng, các em là những kẻ yếu đuối hay hèn nhát, không đủ dũng khí hay sự kiên nhẫn… Có khi lại cho rằng đó là một hành động thiếu suy nghĩ, nông nổi do không có kỹ năng sống. Tuy nhiên, cần phải xem xét từng trường hợp, với những nguyên nhân khác nhau từ bên ngoài thì có khi lại thấy rằng việc hủy hoại bản thân lại là một điều tất yếu. Chính vì thế, đó sẽ là một tiếng chuông báo động về sự ô nhiễm “môi trường tâm lý” mà các em nói riêng, các học sinh của chúng ta nói chung hiện nay đang phải gánh chịu.
Liên quan đến thực trạng một số trường hợp học sinh có học lực giỏi và được đánh giá không phải chịu nhiều áp lực từ việc học cũng tìm đến cái chết khiến dư luận hoang mang, chuyên gia tâm lý Lê Khanh đánh giá: “Trong số các em đi tìm cái chết, ở đây có khi là sự giải thoát hay trốn chạy thực tế… thì yếu tố học giỏi lại không đồng nghĩa với năng lực chịu đựng cao. Đôi khi chính vì sự học giỏi đó lại tạo ra những áp lực từ gia đình và từ chính bản thân, đã tạo ra những nội kết ngày càng nặng nề hơn khiến cho các em không đủ sức chịu đựng. Ban đầu, chỉ là những rối nhiễu tâm lý như cáu gắt, chống đối… dần dần đến mức trầm cảm, tự cô lập, bỏ ăn, mất ngủ… mà vẫn chưa nhận được sự quan tâm của gia đình và cuối cùng là một cái chết đã được báo trước.
Mỗi cái chết đều có thể bắt nguồn từ những lý do khác nhau. Tuy nhiên, yếu tố chung chính là những biểu hiện “báo động” mà người thân cần phải lưu ý từ những thay đổi trong hành vi, cách sống. Sự lo âu, mất ngủ hoặc thái độ dửng dưng trước các tác động của người thân kèm theo các rối nhiễu tâm lý. Vì thế, không nên chờ “nước đến chân mới nhảy” mà cần phải có những biện pháp phòng ngừa”.
Theo chuyên gia tâm lý Lê Khanh, biện pháp phòng ngừa tốt nhất đơn giản ở 4 từ “tử tế – kiên quyết- yêu thương và tôn trọng”. Tử tế chứ không bảo bọc – kiên quyết chứ không áp đặt – yêu thương chứ không đòi hỏi và tôn trọng chứ không nuông chiều.
Ngoài ra, không chỉ là gia đình mà nhà trường còn phải có những biện pháp cụ thể về việc xây dựng một môi trường học tập lành mạnh, quan tâm đến hoạt động tư vấn tâm lý học đường một cách hợp lý, không chạy theo những thành tích ảo, không tạo điều kiện cho bạo lực học đường phát sinh nhiều hơn. Chỉ như thế, những cái chết, đôi khi chỉ vì những nguyên nhân rất… đơn giản sẽ không còn là những nỗi đau cho gia đình và những mất mát cho xã hội.
Trước đó, báo Người Đưa Tin đã đưa tin, vào khoảng 8h ngày 3/1, các học sinh lớp 7A, trường THCS Tân Lâm đến phòng Tin học để học. Khi quay trở lại lớp, các em bàng hoàng phát hiện em L. đã tử vong trong tư thế treo cổ tại cửa sổ và có để lại thư tuyệt mệnh. Sự việc khiến các học sinh gào khóc ầm ĩ. Nghe thấy vậy, các thầy giáo đã chạy đến và nhanh chóng báo cho cơ quan chức năng. Ngay sau đó, công an có mặt phong tỏa hiện trường để điều tra nguyên nhân vụ việc.
Sau khi sinh ra, hệ thống thần kinh của trẻ bắt đầu tiếp xúc với môi trường bên ngoài qua 5 giác quan : Nhìn – nghe – sờ chạm – nếm – ngửi và 2 năng lực : Khả năng thăng bằng và sự cảm nhận về bản thân. Chúng ta thấy rằng trẻ tiếp xúc với thế giới qua các giác quan, trẻ học tập qua giác quan và phát triển vận động để tự lập và khởi đầu trong mối quan hệ. Giai đoạn cảm giác vận động là giai đoạn khởi đầu của quá trình phát triển nhận thức (Piaget).
Với một trẻ bình thường, thì sự phát triển giác quan sẽ giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp bằng cái nhìn, phân biệt được khuôn mặt của người mẹ và những người khác . Trẻ cũng nhận ra những âm thanh quen thuộc từ lời ru của mẹ, tỏ ra khó chịu với những âm thanh ồn ào và thư giãn với tiếng nhạc. Đặc biệt là xúc giác và vị giác giúp cho trẻ cảm thấy yên ổn, dễ chịu với sự ôm ấp vuốt ve của người mẹ. Thích thú hưởng thụ vị ngọt của sữa và phản ứng với các vị khác. Tất cả những phát triển đó giúp cho trẻ có được sự quân bình về giác quan và phát triển một cách hài hòa.
Thế nhưng, với trẻ có tình trạng tự kỷ thì không như vậy. Sự cảm nhận hay tiếp thu các cảm giác của các em không quân bình. Có trẻ thì quá nhạy cảm, có trẻ thì quá thờ ơ với những tác động của ánh sáng, âm thanh, sự sờ chạm và các hương vị của thức ăn, đồ uống.
Khi trẻ không có được sự quân bình về giác quan , ta gọi đó là tình trạng rối loạn chức năng hòa nhập cảm giác , hay tình trạng rối loạn quân bình cảm giác ( Sensory Processing Disoder ) hoặc ngắn gọn là rối loạn cảm giác. Sự mất quân bình về cảm giác sẽ tạo ra những phản ứng và hành vi không bình thường. Điều này sẽ khó hiểu nếu không có sự quan tâm đến khả năng tiếp nhận cảm giác của trẻ.
Rối loạn cảm giác có thể hiện diện trong nhiều lãnh vực phát triển khác nhau của trẻ như nhận thức, vận động, xã hội/cảm xúc, âm ngữ/ngôn ngữ hay chú ý. Khi có khó khăn về cảm giác, trẻ không thể phản ứng một cách phù hợp với những cảm giác đã tiếp nhận cũng như sẽ có những khó khăn không thích nghi với môi trường bên ngoài.
Chính những rối loạn về giác quan ( Nhìn /nghe / sờ chạm /sự quân bình và sự cảm thụ bản thân) đã góp phần quan trọng vào những khó khăn trong nhiều lĩnh vực khác nhau như:
Có những phản ứng quá mức hay dưới mức bình thường với các cảm giác thông qua các giác quan .
Có sự tăng động hoặc ngược lại, quá thụ động
Kém tập trung , có hành vi cẩu thả hay bốc đồng.
Vụng về và Kém khả năng thích nghi với môi trường
Chậm nói và chậm phát triển về vận động
Khó kiểm soát cảm xúc ( dễ cười/khóc hay cáu gắt ) và không có khả năng tự ổn định.
Như vậy, rõ ràng tình trạng mất quân bình về khả năng tiếp nhận cảm giác, đặc biệt là ở trẻ tự kỷ (ASD) cũng như tăng động – kém chú ý ( ADHD) đã là tác nhân đưa đến các rối loạn mà chúng ta thường cho rằng, đó là do các nguyên nhân khác về thần kinh hay tính khí.
Khi đứng trước một tác nhân hay một thông tin có liên quan đến giác quan – thì tiến trình nhận biết và phản ứng của trẻ sẽ như thế nào ? Giai đoạn đầu tiên của quá trình Xử lý cảm giác là Tiếp nhận, điều này diễn ra khi đứa trẻ có ý thức về cảm giác. Giai đoạn thứ hai là Chuyển hướng, khi đứa trẻ bắt đầu chú ý đến cảm giác. Giai đoạn tiếp đến là giai đoạn Diễn giải, khi đứa trẻ cảm nhận được điều gì đang xảy ra. Cuối cùng là giai đoạn Tổ chức, khi đứa trẻ sử dụng các thông tin để đưa ra một phản ứng. Phản ứng có thể là một hành vi biểu lộ cảm xúc, một hành động của cơ thể, hoặc một phản ứng về nhận thức. Dĩ nhiên là hầu như các giai đoạn này sẽ diễn ra một cách tự động và nhanh chóng để đưa đến một phản ứng gần như là tức thời của đứa trẻ.
Khi chúng ta bật đèn, trẻ sẽ nheo mắt, gõ chuông, trẻ sẽ quay đầu tìm, chạm vào trẻ, trẻ sẽ co lại… đó là những phản ứng bình thường. Thế nhưng, với trẻ đặc biệt thì không như vậy . Có thể trẻ sẽ khó chịu với một ánh sáng bình thường hoặc thờ ơ trước một ánh sáng mạnh – và sự mất quân bình về thị giác cũng khiến cho trẻ né tránh cái nhìn của người khác.
Trẻ cũng có thể quá khó chịu hay sợ hãi với những âm thanh bình thường, đặ biệt là các tiếng động có phần bất ngờ và đều đều như tiếng nước chảy, tiếng máy khoan, tiếng máy nổ …ngược lại, có trẻ lại tỉnh bơ trước mọi tiếng động chung quanh. Đặc biệt là với cảm giác da và khả năng thăng bằng trong vận động – trẻ thường có những biểu hiện rõ nét.
Khi đầu vào cảm giác không quân bình hoặc không thể thiết lập một cách trật tự trong não bộ, trẻ sẽ cảm nhận thế giới xung quanh với sự khác biệt. Trẻ sẽ không cảm nhận được hình ảnh chính xác, tin cậy về cơ thể và môi trường, và sự rối loạn tri giác này gây ra các khó khăn trong phát triển với mức độ khác nhau, đưa đến việc xử lý thông tin và hành vi khác nhau. Vì trẻ không có khả năng xử lý thông tin nhận được thông qua các giác quan, nên trẻ khó khăn trong việc thích nghi với các tình huống. Sinh học thần kinh của các hệ thống giác quan bị rối loạn chức năng, do đó bóp méo khả năng cảm nhận thế giới một cách chính xác của trẻ.
Như vậy, khi nhận thấy con em có những rối loạn về hành vi, những phản ứng không bình thường, chúng ta cần lưu ý là sẽ có rất nhiều khả năng trẻ bị tình trạng rối loạn cảm giác . Tuy nhiên, vấn đề về rối loạn cảm giác của trẻ không chỉ đơn giản là như thế, mà nó còn rắc rối hơn nhiêu ở một số trẻ .
Theo tác giả Carol Kranowitz trong The Out – of – Sync Child(Đứa trẻ rối loạn) thì có nhữngTrẻ vừa có thể phản ứng thái quá vừa kém phản ứng trong cùng một hệ thống cảm giác, hoặc cũng có thể phản ứng thái quá với một loại cảm giác này và kém nhạy cảm đối với loại cảm giác khác, hoặc có thể phản ứng khác nhau đối với cùng một kích thích phụ thuộc vào thời gian và hoàn cảnh, thay đổi liên tục. Hôm qua, sau một thời gian nghỉ dài, cậu bé chịu đựng khá tốt tiếng chuông báo cháy; hôm nay, không có thời gian nghỉ, cậu bé lại trở nên khó kiểm soát với tiếng đóng cửa nhẹ. Hoàn cảnh tạo nên sự khác biệt lớn”. Chính những phản ứng trái ngược nhau ở cùng một đứa trẻ đã khiến cho việc điều chỉnh các rối loạn về cảm giác là không hề dễ dàng.
Trẻ cần gì để có thể điều hòa cảm giác :
Đầu tiên đó là sự thăng bằng.Đây là yếu tố cần thiết cho sự vận động hằng ngày. Sau đó là sự Cảm thụ bản thân, đó là sự nhận biết về các cơ bắp, các khớp, sự cảm nhận của bản thân trong không gian. Cảm giác này không liên quan đến 5 giác quan mà liên quan đến chính các bộ phận của cơ thể để có thể điều hợp sự vận động. Tiếp theo là sự hoạch định vận động là sự chuẩn bị các vận động của cơ thể, mà khởi đầu chính là những cảm nhận của xúc giác.
Ngoài ra hệ thống tiền đình đem lại sự thăng bằng cho cơ thể và khả năng điều hợp vận động hai bên phải và trái cũng góp phần quan trọng vào khả năng điều hòa cảm giác hay đúng hơn là đem lại bình ổn cho cơ thể, từ đó đưa đến sự bình ổn trong tâm lý – hành vi – nhận thức.
Các hình thức rối loạn cảm giác :
Theo Ts Stanley I.Greenspan và Ts Lucy J.Miller thì tình trạng rối loạn giác quan được chia làm ba nhóm triệu chứng chính.
Loại I. Rối loạn điều chỉnh cảm giác (SMD)
Tình trạng này khiến cho trẻ khó khăn trong việc đưa ra phản ứng phù hợp với mức độ của kích thích. Rối loạn này bao gồm tình trạng phản ứng quá mức khiến cho trẻ cảm thấy cần cảnh giác hơn người bình thường. “Ngay cả khi trẻ ngủ, “hệ thống” này vẫn làm việc tốt hệt như động cơ của ô tô được khởi động để chạy không tải. Điều này khiến trẻ cảm nhận âm thanh và các kích thích khác nhạy hơn nhiều so với trẻ bình thường. Thậm chí ngay cả những âm thanh vô hại như tiếng đóng cửa cũng có thể làm cho trẻ ngay lập tức và hoàn toàn trở nên cảnh giác hệt như bạn và tôi cảnh giác với tiếng nổ lò sưởi ở trong nhà vậy”
Loại II. Rối loạn vận động có liên quan đến cảm giác (SBMD)
Loại rối loạn này xuất hiện khi thông tin cảm giác đầu vào của hệ cảm thụ bản thân và hệ tiền đình bị sai lệch hoặc xử lý không chính xác. Hệ cảm thụ bản thân cho chúng ta biết rõ bộ phận cơ thể nào của chúng ta đang chuyển động như thế nào Hệ tiền đình cho chúng ta biết rằng cơ thể mình đang ở trạng thái nghiêng hay thăng bằng.
Khi hệ thần kinh trung ương của trẻ có khó khăn trong việc sử dụng thông tin cảm giác từ những hệ trên, trẻ có thể mắc Rối loạn phối hợp động tác – một dạng của SBMD khiến trẻ trở nên khó khăn trong việc thực hiện chuỗi hành động cần thiết để thực hiện điều trẻ muốn, chẳng hạn như bắt chước, chơi thể thao, đạp xe, hoặc trèo thang. Trẻ em bị chứng SBMD thường lóng ngóng, hay vô tình làm rơi vỡ đồ chơi, hoặc dẫm lên đồ vật. Những trẻ này thường thích ngồi chơi các trò tưởng tượng hơn là thích vận động thể thao.
Một dạng khác của rối loạn SBMD là rối loạn tư thế, khiến cho trẻ lúc nào cũng cảm thấy yếu ớt, dễ mệt mỏi và không định hình rõ tay thuận hay khó vận động qua đường giữa thân.
Loại III. Rối loạn phân biệt cảm giác (SDD)
Rối loạn này khiến cho trẻ khó phân biệt được những cảm giác giống nhau. Khả năng Phân biệt cảm giác là quá trình mà theo đó chúng ta tiếp nhận thông tin từ các giác quan đưa tới và sẽ được hợp nhất, diễn giải, phân tích và kết hợp với toàn bộ dữ liệu chúng ta đã lưu trữ để sử dụng hiệu quả các thông tin tiếp nhận đó.
Điều này cho phép chúng ta nhận biết tay đang cầm vật gì mà không cần nhìn, hay có thể dùng tay sờ để tìm vật, hoặc hình dung ra cách viết trên một trang giấy, hoặc cho phép chúng ta phân biệt được các chất liệu và mùi vị, và nghe được cuộc trò chuyện của những người mà ta quan tâm dù xung quanh ồn ào. Rối loạn này có thể khiến cho trẻ trở nên mất tập trung, thiếu khả năng tổ chức và kết quả học tập tại trường bị sút kém.
Như thế các vấn đề về rối loạn cảm giác có thể được coi là một phổ rộng và khác biệt ở từng trẻ giống như vân tay vậy. Điều này cũng tương tự như chính tình trạng tự kỷ hay tăng động kém chú ý ở mỗi trẻ. Đều mang tính cá biệt không trẻ nào giống trẻ nào..Vì vậy, rõ ràng là phải có một sự quan sát, tiếp cận và áp dụng các biện pháp can thiệp cá nhân cho từng trẻ. Điều này cho thấy những kinh nghiệm giáo dục từ trẻ này sang trẻ khác được trao đổi giữa các phụ huynh chỉ mang tính tham khảo, cũng như các “giáo án” chung cho các trẻ tự kỷ sẽ được xem là không phù hợp cho một chương trình can thiệp hiệu quả.
CvTL Lê Khanh
Tài liệu tham khảo :
Kỹ thuật Hòa Nhập Cảm Giác và Những trò chơi Can thiệp sớm ( TG : Barbara Sher )
Một đôi bạn trẻ sau khi cưới nhau, bà mẹ vợ phàn nàn : Tiền mừng cưới, vàng vòng cho cô dâu, mẹ chồng gom hết , gửi tiết kiệm tuy cho con trai đứng tên nhưng giữ sổ, muốn lấy ra thì phải xin. Hai vợ chồng đều đi làm và trước khi lấy nhau, thì đều là những đứa con ngoan, có bao nhiêu mang nộp cho mẹ hết. Bây giờ lấy nhau, chàng về ở nhà nàng, thì bà mẹ chồng lại yêu cầu mỗi tháng gửi về cho bà ấy hơn một nửa tiền lương của con trai, để ..chơi hụi !
Ở đây, cả hai bà mẹ đã không “dạy con” biết quản lý tiền cho nên khi “ ra riêng” vẫn phụ thuộc vào bố mẹ, rốt cuộc thay vì giúp con xây dựng một gia đình riêng để trưởng thành và có trách nhiệm thì bà mẹ vợ lại phải nhận thêm một miệng ăn ! Vì thế hai vợ chồng vẫn là hai đứa trẻ để 2 bà mẹ quản lý thu chi !
Việc giúp con biết quản lý tiền là điều mà các bậc cha mẹ Tây phương, đặc biệt là trong các gia đình người Do Thái đã tập cho con ngay từ bé, 7, 8 tuổi là đã có khả năng nhận biết giá trị của đồng tiền, biết để dành tiền và nhất là biết tiêu tiền một cách hợp lý. Còn gia đình VN chủ yếu chỉ tập trung vào việc dạy cho con ngoan ngoãn, chăm học và thông minh !
Có nhiều phụ huynh khi con có vấn đề về tâm lý, như nhút nhát hay chống đối , lười biếng và ỷ lại..hay hỗn láo, ích kỷ, đòi hỏi ..thậm chí có thể cãi hay đánh lại cả bố mẹ thì thường nghĩ đến ảnh hưởng của việc chơi games nhiều, bị ảnh hưởng của phim ảnh hay xã hội… khá hơn, thì có thể thấy rằng đó là hậu quả của việc chiều chuộng, bảo bọc, muốn gì được nấy từ nhỏ. Điều này đúng, nhưng chưa đủ. Vì ít ai ngờ rằng, việc không tập cho con biết giá trị đồng tiền và cách quản lý tiền lại có những tác động đến các vấn đề trên.
Nhiều bà mẹ thường nghĩ rằng việc không cho con tiền túi, là để bảo vệ con khỏi việc mua sắm quà bánh linh tinh, đồ chơi tầm bậy… ngay cả khi con đã vào cấp 2, cũng rất hạn chế việc cho con tiền, chỉ khi nào có nhu cầu xin mua học cụ, sách vở thì mới cho. Còn tất cả các nhu cầu khác thì cần gì sẽ tự tay mua cho con, bao nhiêu cũng được. Ngược lại, có nhiều mẹ lại cho con nhiều quá mức cần thiết, để muốn làm gì thì làm, chủ yếu là để chứng tỏ … gia đình có điều kiện !
Những quan điểm và cách cho con tiền như thế, thường sẽ đem lại hậu quả, nhẹ là khi lớn lên trẻ sẽ không tự chủ được trong việc dùng tiền, lãnh lương ra là có thể mua sắm cho hết trong vài tuần và sau đó là ăn mì gói ! Còn hậu quả trước mắt là không thể uốn nắn các hành vi sai trái của con, không thiết lập được mối quan hệ giữa bố mẹ và con một cách lành mạnh và giúp con có thể tự hào vào bản thân.
Chúng ta nên tập cho trẻ biết cách quản lý tiền ngay từ khi bước vào lớp Một. Không đơn giản chỉ là cho con một, hai chục để mua gì thì mua, mà phải theo một trình tự :
Giai đoạn 1 : Nhận biết tiền : Ngay từ khi trẻ vào mẫu giáo, đã phải tập cho trẻ nhận ra những con số trên các tờ giấy bạc từ 1000 – 5000 đồng. Chỉ cần nhận ra sự khác biệt, và sau đó khi đi mua hàng, hãy chỉ cho con biết là với các mệnh giá trên, có thể mua được gì. Bố mẹ có thể chơi trò chơi mua bán với trẻ, vừa là việc nối kết mối tình thân, vừa tập cho trẻ biết nhận dạng và cả việc tính toán khi mua sắm những món hàng dưới 5000.
Giai đoạn 2 : Biết cầm tiền và mua sắm – Khi con vào lớp Một hoặc lớp Hai, hãy cho trẻ từ 10000 trở xuống , hướng dẫn trẻ biết mua quà bánh, nước giải khát, kem hay đồ chơi rẻ tiền – Chắc hẳn bố mẹ sẽ lo lắng về vấn đề vệ sinh hay các nguy cơ khác. Điều đó là đúng, nhưng không phải việc ngăn ngừa trẻ ăn quà vặt, chơi các trò chơi “ mất vệ sinh” một chút mà có thể giữ an toàn cho trẻ. Chính điều đó lại giúp trẻ có sức đề kháng hơn, sau vài trận đau bụng… nếu chúng ta tập được cho trẻ hai thói quen : Luôn rửa tay trước khi ăn, sau khi đi học về và khi đi đâu về nhà thì thay ngay quần áo ra thì đó mới là cách đơn giản nhất để tránh những lây nhiễm từ môi trường.
Giai đoạn 3 : Biết kiếm tiền và để dành : Khi cho trẻ 10 hay 20 nghìn –ta yêu cầu trẻ hãy giữ lại ít nhất là 1/3 hay ½ – Số tiền đó mang về, ta sẽ cho thêm 1 khoản tiền bằng với số tiền mà trẻ giữ lại, sau đó bỏ vào trong 2 cái hộp, một cái để dành đến cuối tuần mở ra, gộp lại để trẻ có thể tự do mua sắm những món đồ mà trẻ ưa thích – ta sẽ không can thiệp vào. Còn 1 hộp ít hơn là để làm từ thiện. Trẻ cũng có thể kiếm tiền bằng cách tham gia một số công việc trong nhà. Lưu ý có những công việc là bổn phận, thì không tính. Bố mẹ cũng không dùng tiền để nhử trẻ làm việc, vì như thế sẽ tập cho trẻ thói quen coi trọng tiền bạc, làm điều gì cũng đòi phải trả công mới làm. Hãy giải thích và chỉ cho trẻ thấy sự khác biệt giữa thành quả được hưởng và sự đòi hỏi quyền lợi.
Giai đoạn 4 : Biết quản lý tiền : Hãy giải thích cho con về việc lập sổ tiết kiệm, biết cách tiêu tiền vào những món vật dụng cần thiết hữu ích và giá trị của việc làm từ thiện. Có thể để cho trẻ vài kinh nghiệm “đắng lòng” khi mua phải hàng giả, hay phí tiền vào các chuyện vô bổ, để rồi không còn tiền cho những nhu cầu thiết yếu nữa.
Giai đoạn 5 : Ý nghĩa sau việc quản lý tài chính : Khi trẻ đã biết cách tiêu tiền, có nhu cầu dùng tiền, thì bố mẹ có thể dùng ngay điều đó để quản lý hành vi của trẻ. Ta sẽ cho trẻ thấy, sống trong gia đình là phải có bổn phận với chính mình và trách nhiệm với những người chung quanh. Khi trẻ làm tốt thì các công sức của trẻ sẽ được nhìn nhận bằng sự khen thưởng về tinh thần và vật chất. Ngược lại thì trẻ không những phải chịu sự hạn chế về nhu cầu mà còn phải chịu sự bỏ rơi về mặt tinh thần. Trẻ sẽ hiểu niềm vui sướng lớn nhất của mỗi người là thấy mình trở thành một người có ích. Có ích cho bản thân trong việc có thể tự tay làm ra các giá trị vật chất và được mọi người chung quanh quan tâm và tôn trọng .
Những sai lầm về tiền bạc mà phụ huynh cần tránh
Không nói chuyện với con về tiền bạc
Không dám từ chối mọi yêu cầu của con
Cùng con “nói dối” về tiền bạc
Lời nói, hành vi của bố mẹ không thống nhất
Tiêu xài cho giải trí quá mức
Không dạy con biết dành dụm cho lúc nguy cấp
Bố mẹ mâu thuẫn, cãi vã vì tiền bạc trước mặt con
Như thế, khi chúng ta tạo ra nhu cầu dùng tiền của trẻ, chính là giúp cho trẻ biết giá trị của bản thân, của sự làm việc và lòng tự tin vào chính mình. Hơn nữa, nó cũng là 1 công cụ để quản lý trẻ, khi dựa vào nhu cầu lợi ích của trẻ để uốn nắn hành vi , chứ không phải là đòn roi, là quát mắng …những biện pháp kỷ luật đầy nước mắt để ép trẻ vào một khuôn khổ mà kết quả thường là sự thất vọng ngày càng nhiều về đứa con của mình.
Đến nay, sau gần 2 thập niên ( 1990 – 2017 ) tình trạng rối loạn phát triển ở trẻ em vẫn còn những rối loạn trong việc gọi tên. Nhất là để xác định được đâu là những rối loạn đặc hiệu cho tình trạng này. Vẫn còn nhiều lẫn lộn giữa Tự kỷ với Tăng động giảm chú ý và chậm phát triển trí tuệ, dù 3 tình trạng này là khác nhau từ tên gọi đến triệu chứng..
Tự kỷ, chỉ hai âm tiết thôi mà không biết từ bao giờ đã biến thành một ông kẹ, hù dọa không phải những trẻ sợ ma sợ bóng tối, mà là các phụ huynh đủ mọi thành phần, lứa tuổi, trình độ … đặc biệt ở các cha mẹ, càng hiểu nhiều, càng đọc lắm thì lại càng …run Họ khủng hoảng, khiếp vía, lo lắng, bật khóc, suy sụp, chỉ muốn chết quách đi cho xong khi phải đối diện với cái nhãn VIP của một ngài bác sĩ, chuyên gia nào đó dán lên đầu đứa con khỏe mạnh xinh tươi của mình.
Bởi vậy, nhiều bác sĩ, chuyên gia, và cả các giáo viên, nhà giáo dục khi đánh giá, chẩn đoán, xem xét tình trạng của trẻ, đã ngại bố mẹ có thể lên cơn stress khi phải đối diện với sự thật, nên đã không gọi là tự kỷ, mà gọi là rối loạn phát triển lan tỏa, hay né tránh bằng cách gọi đó là trẻ tăng động – kém chú ý , trẻ chậm phát triển … vì họ cho rằng gọi như thế sẽ nhẹ nhàng hơn cho việc mô tả những hành vi kỳ lạ, sự chậm trễ về ngôn ngữ, những rối loạn trong giao tiếp … để bố mẹ có thể chấp nhận và bắt đầu một hành trình không có điểm..dừng !
Cũng có người cho rằng gọi tên chính xác cái chứng của con mình là gì không quan trọng, quan trọng là sự yêu thương, chăm sóc con hết lòng…dù con có là gì đi nữa , cứ ráo riết can thiệp cho con bằng đủ mọi biện pháp là con sẽ có thể tiến bộ, có thể hòa nhập với xã hội … thậm chí là có thể ..bình thường trở lại !
Đây là cách nghĩ tuy cần nhưng chưa đủ hay vô tình lại tạo ra những định hướng sai lệch trong tiến trình can thiệp rất dài của con. Tình yêu thương con một cách tràn đầy sẽ là một động lực mạnh mẽ không gì sánh được trong hành trình cùng con. Nhưng nó cũng sẽ là lý do thúc đầy bô mẹ bước vào mê cung của những phương pháp can thiệp với những kết quả đầy thuyết phục dù chẳng hề dựa trên một chứng cớ khoa học nào . Nào là cạo gió để trục cái khí lạnh ra khỏi con, con sẽ hồi phục lại trí tuệ sau vài chục lần chịu đựng sự “tra tấn” cào nát cơ thể để đưa đến kết quả cụ thể là trục được một khoản tiền không nhỏ ra khỏi túi của bố mẹ. Nào là chỉ dùng vài chục hộp Vương Não Khang thì sẽ giúp trẻ phát triển trí tuệ, ngôn ngữ mà không hề nghĩ đó chỉ là một loại thực phẩm chức năng vô thưởng vô phạt… Nguy hiểm hơn, giờ đây việc “chữa trị” cho trẻ Đặc biệt không chỉ ở các cá nhân như Bà Lang Nùng hay ông thần y nào đó.. mà là từ những cơ sở y tế chính thức như viện châm cứu, bệnh viên quốc tế, với tên tuổi của các Tiến sĩ, giáo sư đầy uy tín. Thậm chí với những con số cụ thể như hơn 1500 bệnh nhi mà khả năng phục hồi là 60% sau một số liệu trình châm cứu vài ba tháng hay vài ba năm…
Đúng là những biện pháp phẩu thuật khoa học như cấy tế bào gốc, kỹ thuật châm cứu, cấy chỉ là có tác dụng trên một số chứng bệnh về thần kinh … Nhưng ở đây, các cơ sở này đã cố tình dùng các thuật ngữ khoa học để đánh đồng các chứng rối loạn phát triển với những tổn thương về thần kinh của trẻ, đưa đến các khó khăn về vận động, mà những phương pháp trên đã tỏ ra có hiệu quả. Họ suy diễn theo kiểu là cứ hễ cái gì liên quan đến thần kinh, đến rối loạn là đều có thể dùng chung một số liệu pháp như nhau…
Đó cũng chính là việc xem các tình trạng rối loạn phát triển này đều có các biểu hiện tương tự nhau, nên cần gì phải phân biệt một cách rõ ràng. Cứ hễ chậm nói, kém giao tiếp xã hội, chậm nhận thức, hoạt động lăng xăng không ngừng nghỉ, chẳng thèm chú ý đến ai…thì gọi các VIP ấy là tự kỷ hay tăng động, giảm chú ý hay chậm phát triển cũng chẳng hề gì ! Miễn là cứ quan tâm, yêu thương con, cho con đi can thiệp sớm cho đến khi con nói được là xong, là có thể cho con đi học, và khi đã vào được trường là xong, con sẽ được hòa nhập !
Trong sách DSM 5 (Diagnostic and Statistical Manual Disorders – Cẩm Nang Thống Kê & Chẩn Bệnh Tâm Thần ) xuất bản năm 2003 đã đưa ra các chẩn đoán tự kỷ như sau :
Rối Loạn Phổ Tự Kỷ (Autism Spectrum Disorder) – có mã số 299.00 (F84.0) với các dấu hiệu đặc trưng trong 3 nhóm:
– Nhóm A :Trẻ có 3 dấu hiệu khiếm khuyết về ngôn ngữ , cảm xúc và giao tiếp xã hội
– Nhóm B: Trẻ có 3 dấu hiệu giới hạn, lặp lại, rập khuôn về hành vi, sở thích, và hoạt động. Ngoài ra trẻ còn có những rối loạn về giác quan .
Những tiêu chuẩn trong nhóm B của DSM -5 được áp dụng để chẩn đoán và phân định sự khác biệt giữa Rối Loạn Phổ Tự Kỷ (ASD) và dạng Rối Loạn Ngôn Ngữ trong Giao Tiếp Xã Hội (Social ‘Pragmatic’ Communication Disorder SCD). Tiêu chuẩn hay tiêu chí số 4 trong nhóm B về rối loạn cảm giác chưa từng có trong ấn bản cũ (DSM-IV). Nếu trẻ hội đủ 3 tiêu chuẩn của nhóm A nhưng không có những giới hạn, lặp lại, rập khuôn về hành vi, sở thích, và hoạt động thuộc nhóm B thì không phải là tự kỷ, và nên xếp vào dạng SCD .
Không những thế, khi chẩn đoán tự kỷ cần nêu rõ: – Trẻ ASD có kèm theo chứng chậm phát triển, Chậm nói hay không? Trẻ có cần một sự chăm sóc y tế hay kèm theo một chứng rối loạn phát triển khác như chứng tăng động giảm chú ý ( ADHD), thậm chí là có kèm theo bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder) hay không?
APA ( hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ ) cảnh báo: Những cá nhân đã có sự chẩn đoán bị rối loạn tự kỷ, rối loạn Asperger, hay rối loạn lan tỏa – không phân biệt rõ (PDD – NOS), dựa vào ấn bản cũ (DSM-IV), phải được xếp chung vào Rối Loạn Phổ Tự Kỷ (ASD) trong ấn bản mới (DSM 5). Riêng những cá nhân có những khiếm khuyết nghiêm trọng về ngôn ngữ, nhưng không hội đủ tiêu chuẩn tự kỷ trong DSM 5, sẽ được thẩm định lại để xếp vào dạng Rối Loạn Ngôn Ngữ trong Giao Tiếp Xã Hội (SCD).
Như vậy, rõ ràng các chứng rối loạn phát triển hay rối loạn ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội và các chứng tâm thần trẻ em, đã được phân biệt rất rõ ràng – mặc dù chúng đều có những biểu hiện tương tự nhau.
Cũng theo sách DSM 5 thì rối loạn tăng động giảm chú ý có 3 nhóm khác nhau là :
– Nhóm thiên về Giảm chú ý với 9 dấu hiệu sau :
1/ Không chú ý đến các chi tiết .
2/ Dễ nhàm chán các hoạt động phải lặp lại .
3/ không quan tâm đến người đối diện trong giao tiếp ,
4/ không hoàn tất các yêu cầu về công việc và học tập.
5/ Gặp khó khăn khi phải tuân theo các yêu cầu của bố mẹ hay giáo viên.
6/ Khó tổ chức một hoạt động theo một trình tự nhất định trong một thời gian cụ thể.
7/ Không thích các công việc đòi hỏi sự tập trung.
8/ thường để mất đồ đạc, học cụ.
9/ dễ bị phân tâm bởi những kích động chung quanh
Trẻ dưới 17 tuổi cần đạt 6 tiêu chuẩn trở lên mới hội đủ điều kiện thuộc dạng rối loạn tăng động giảm chú ý .
Nhóm thiên về Tăng động với 9 dấu hiệu :
1/ Thích cựa quậy, đánh nhịp, vặn vẹo chân tay .
2/ Không thể ngồi yên một chỗ quá 5 phút
3/ Thường không thể chơi một cách nhẹ nhàng, êm thắm .
4/ Đứng ngồi không yên, đôi chân chỉ thích đi .
5) Nói nhiều .
6/ Trả lời trước khi người khác hỏi xong
8/ Không kiên nhẫn chờ đợi
9/ Ưa quấy rầy hoặc làm gián đoạn công việc của người khác .
Nhóm Kết Hợp bao gồm 9 tiêu chuẩn của dạng giảm chú ý (Inattention) và 9 tiêu chuẩn của dạng tăng động và bồng bột (Hyperactivity and Impulsivity).
( theo thông tin từ FB Danang Ho )
Như thế, nếu xét về bản chất và dấu hiệu thì rõ ràng tự kỷ – tăng động kém chú ý hay chậm phát triển – kém giao tiếp xã hội …dù có chung cái mũ là rối loạn phát triển. Thì đều có những dấu hiệu khác nhau và dĩ nhiên là từ đó, phải có những biện pháp và mục tiêu can thiệp khác nhau.
Không phải đơn giản mà ngay từ xa xưa, cha ông ta đã có câu : Tên gọi có đúng ( Danh chính ) thì lời nói mới phù hợp ( Ngôn thuận ) . Mà có sự phù hợp thuận lợi thì mới đạt kết quả. Đã biết bao nhiêu thứ trong thời đại này, do sự nhập nhằng, không chính danh, mà đã trở nên giả dối hay tạo ra những quan điểm sai lầm trong việc định hướng. Là Phụ huynh hay là nhà chuyên môn đều nên xem xét một cách rõ ràng về tình trạng của con em mình, để từ đó có thể định ra một lộ trình, một mục tiêu can thiệp một cách hợp lý và hiệu quả.
Một trong những biện pháp đem lại sự bình an và hạnh phúc cho mỗi người là có cái nhìn tích cực, biết chấp nhận thực tế và thay đổi cách ứng xử để phù hợp với những điều kiện trong cuộc sống của chúng ta. Điều này có thể áp dụng vào hầu hết các vấn đề mà mỗi người chúng ta đang đương đầu.
Khi đối diện với những thách thức mà một đứa con gây ra cho bố mẹ . Các bậc phụ huynh thường đi tìm kiếm những nguyên nhân bên ngoài như Phim ảnh bạo lực, game online, bạn bè xấu … và cho rằng đứa con mà họ nghĩ rằng “ rất ngoan” rất dễ thương của mình, đã bị tác động của xã hội mà trở nên ngỗ nghịch và thách thức mọi người bằng những thói hư tật xấu… ít ai nghĩ rằng những thói hư tật xấu ấy có nguồn gốc từ chính ..bố mẹ ! Chính sự dung dưỡng, nuông chiều đã từng bước biến đổi đứa trẻ trở thành điều không thể chấp nhận.
Ngay cả với những trẻ đặc biệt, mà nguyên nhân sự rối loạn của chúng đến nay vẫn là một ẩn số. Chính vì thế mà nhiều người vẫn cho rằng, tình trạng tự kỷ của trẻ là do môi trường bên ngoài tác động vào trẻ sau khi sinh, và vì thế họ tin rằng với thời gian , bằng những biện pháp nào đó, có thể chữa lành. Niềm tin ấy cùng với tình thương con khiến họ đã dồn mọi nỗ lực vào để cố gắng biến đổi những điều mà họ cho rằng bất thường ở trẻ, trở thành những điều bình thường dưới mắt mọi người. Điều này có khi là sự vô vọng, và đem lại cho phụ huynh một sự sụp đổ.
Thái độ tất cả vì con là một đức tính tuyệt vời của các ông bố, bà mẹ… nhưng điều đó ngoài việc cung cấp cho họ một nghị lực phi thường để đeo đuổi, vận dụng mọi biện pháp trị liệu cho con, kể cả những biện pháp phi lý ,mơ hồ nhất. Không những thế, vì việc không chấp nhận được tình trạng của con, đã khiến cho họ suy kiệt cả niềm vui trong cuộc sống, nhìn đâu cũng thấy một sự bi quan và khao khát một sự thay đổi nhanh chóng .
Trong tác phẩm : NHỮNG TRÒ CHƠI CAN THIỆP SỚM của tác giả Barbara Sher , một chuyên viên trị liệu vận động đầy kinh nghiệm, đã đưa ra một quan điểm hết sức thú vị , bà cho rằng chính sự nỗ lực dập tắt những hành vi “ kỳ cục” của trẻ, nỗ lực chữa trị một trẻ tự kỷ trở nên bình thường, đặc biệt là ở các trẻ tự kỷ chức năng cao là một điều không đem lại cuộc sống tốt đẹp cho trẻ như bố mẹ thường mong, Bà nghĩ rằng trẻ tự kỷ không phải là những bệnh nhân, mà là một thành phần tiến bộ hơn của con người ! Bởi vì có rất nhiều thiên tài về một lĩnh vực nào đó được tìm thấy trong nhóm người tự kỷ .
Bà viết : “ Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu trong một tương lai không quá xa, mọi người sẽ coi việc mắc hội chứng tự kỷ thật là “dễ chịu” hay đó chỉ là cách cảm nhận thế giới khác biệt mà thôi. Những thuật ngữ như Rối loạn cảm giác sẽ được thay thế bằng Có cảm giác khác biệt, và tất cả chúng ta sẽ học cách nhạy cảm hơn với nhu cầu của mình và cách ổn định bản thân chúng ta.”
Zosia Zaks, một người tự kỷ trưởng thành và tác giả của cuốn Tình yêu và Cuộc sống: Chiến lược tích cực cho những người tự kỷ trưởng thành, đã bàn thêm về tương lai này, viết rõ trên trang web của cô (www.autismability.com):
Hầu hết người tự kỷ đều không muốn được “chữa khỏi”. Chúng tôi không muốn tự kỷ bị xóa bỏ khỏi con người chúng tôi một cách thần kỳ, hoặc bằng một vài phương pháp nào đó. Bạn có thể đã từng muốn xóa sạch mọi hành vi bất thường của chúng tôi. Nhưng đây mới là điều quan trọng bạn cần hiểu. Rất nhiều người tự kỷ, với các kỹ năng đa dạng, với những tài năng khác biệt, cũng như những khó khăn, vấn đề và mối quan tâm khác nhau, đang đưa ra những hiểu biết mới về tự kỷ, đang làm việc cần mẫn để tích cực ủng hộ cho các lợi ích của sự đa dạng về thần kinh. Nên mục tiêu cố gắng biến đổi người tự kỷ thành người “bình thường” hay “điển hình” hay “trông giống như bạn đồng lứa” là không ổn, bởi vì tự kỷ là sinh học-thần kinh. Do đó, người tự kỷ được “tạo nên” bởi những nét tự kỷ. Thay vì cố gắng thay đổi, các bạn hãy cố gắng làm việc với chúng tôi bằng cái nhìn của chúng tôi, Nhờ thế chúng tôi có thể học được kỹ năng mới, học được cách giao tiếp, và tận hưởng cuộc sống của chúng tôi.
Quan điểm này có vẻ như rất khó hiểu và chắc cũng khó có bậc cha mẹ nào chấp nhận, con tôi là trẻ tự kỷ, nó đang bị kỳ thị, phân biệt đối xử ở khắp nơi, kể cả trong gia đình mà nay lại bảo rằng không cần thay đổi ? trong khi ở các lĩnh vực khác, nhất là trong giáo dục trẻ bình thường, nó được xem là một quan điểm tiến bộ và hiệu quả !
Chúng ta hiểu rằng, không phải là sẽ chấp nhận mọi sự chậm trễ về ngôn ngữ, mọi rối loạn về hành vi của trẻ, bởi chính tác giả Barbara cũng đã đưa ra những biện pháp tác động qua chơi hết sức thú vị để cải thiện các vấn đề này nơi trẻ tự kỷ. Nhưng điều quan trọng mà các bậc cha mẹ và các nhà trị liệu, các giáo viên và cả những người tiếp xúc với trẻ tự kỷ cần biết – Ngoài những kém cỏi, thiếu hụt về ngôn ngữ và nhận thức, thì bên trong con người của trẻ luôn ẩn chứa một năng lực, mà có thể chúng ta chưa khám phá ra hoặc không xem đó là một năng lực, bởi vì chúng ta chưa hiểu, chưa biết dùng năng lực khác biệt ấy vào việc gì !
Điều mà chúng ta cần phải nhìn nhận, thái độ và nhận thức của trẻ không phải là một sự rối loạn mà chỉ là một sự khác biệt – Điều này cũng tương tự như sự khác biệt về chủng tộc, về niềm tin tôn giáo, về giới tính ( đồng tính, lưỡng tính … ) Chúng ta chấp nhận chúng để chính chúng ta không phải “ tuyệt vọng – muốn chết đi cho xong” mà là tôn trọng và nỗ lực tìm cách phát triển những năng lực tiềm ẩn của trẻ thay vì nỗ dập tắt những hành vi bất thường vì điều đó là vô ích.
Ở đây, ta thấy có một điểm tương đồng trong quan điểm giáo dục – khi đứng trước một đứa trẻ hư – Thay vì trừng phạt mà hãy nhìn nhận và nâng đỡ , đó là quan điểm giáo dục tích cực đã biến đổi rất nhiều trẻ cá biệt, hư hỏng, chống đối trở nên những con người hữu ích, hay ít ra không đem lại cho chúng một mặc cảm bị loại trừ . Với trẻ đặc biệt cũng thế, nhìn nhận, nâng đỡ và tôn trọng chính là quan điểm khi áp dụng các biện pháp giáo dục tích cực mà mọi người từ gia đình đến xã hội đều cần phải có khi đứng trước một đứa trẻ. Chỉ khi nào có được điều này thì chừng đó, chúng ta mới có thể gọi đó là một nền giáo dục hòa nhập đúng nghĩa.
Một quốc gia không chỉ là một chủng tộc, một xã hội không chỉ là một giai cấp, một con người không chỉ là một giới tính, thế tại sao mọi đứa trẻ đều phải là một đứa trẻ bình thường giống nhau trong một nền giáo dục gọi là “ hòa nhập” để phải chịu sự “hòa tan” về nhân cách ?
Hiện nay, trong lĩnh vực giáo dục và chăm sóc trẻ em, có thể nói đó là một môi trường tràn ngập các thông tin về các phương pháp giáo dục cũng như các kỹ năng xử lý tình huống ngoại nhập. Nào là phương pháp Montessori, phương pháp Reggio Emilia, Glenn Doman, cho đến các kỹ năng phát triển trí tuệ cảm xúc EQ, phát triển tiềm năng nghệ thuật, phát triển 8 loại hình thông minh…
Đó là chưa kể đến hàng loạt các đầu sách hướng dẫn cha mẹ dạy con theo phương pháp của Nhật Bản, của Do Thái, của các nước có nền giáo dục nhân bản và tiên tiến đã lôi cuốn không ít gia đình để hiện diện trong các tủ sách tại nhà riêng và nhà trường.
Giữa các làn sóng kiến thức ấy, có bao giờ chúng ta tự nhủ là mình đã không để ý đến cấu trúc tâm lý trong gia đình của người Việt? để xem xét rằng các kiến thức ấy liệu mình có “tiêu hóa” nổi không ? Và nhất là có thể áp dụng một cách nhuần nhuyễn và hiệu quả khi mà chúng ta là những ông bố bà mẹ sinh ra và lớn lên trên dất nước Việt Nam, thấm đẫm những tính chất của người Việt, nhưng lại thấy rằng để dạy con trở nên một con người phát triển thì lại phải áp dụng các phương pháp của môt dân tộc nào đó, chứ trong môt đất nước có 4000 năm Văn Hiến, đâu có tìm ra một phương pháp nào khả dĩ giúp được con tôi đâu ? dù rằng đã có một kho tàng “văn hóa giáo dục” qua hàng ngàn câu ca dao – tục ngữ vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay!
Vâng quả thực không khó để tìm ra những tính cách ưu việt của các phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới, và cũng không khó để chỉ ra những hạn chế trong cách nuôi dạy con của các bà mẹ Việt Nam ! Nhưng đã có bậc phụ huynh nào có thể áp dụng một cách đầy đủ và hiệu quả các phương pháp Nhật Bản hay Do Thái cho con mình, trong một bầu không khi như một gia đình Nhật hay Gia đình Do Thái chưa ? Chắc chắn chúng ta không thể áp dung một cách toàn vẹn như người Nhật, người Do Thái những phương pháp của họ trên đất nước của chính họ. Chúng ta sẽ lý luận rằng, tôi chỉ chọn ra các yếu tố phù hợp thôi ! Nhưng phù hợp với cái gì ? Với văn hóa Việt, với suy nghĩ và nhận thức của bố mẹ hay phù hợp với khả năng phát triển của đứa trẻ cũng là dân Việt . Đây là một điều quan trọng vì rõ ràng các nền giáo dục của các nước đa phần là dựa trên sự phát triển của đứa trẻ chứ không dựa trên nhận thức của bố mẹ. Hơn thế nữa, có phải ai cũng có đủ năng lực sàng lọc được các giá trị nội tại trong các phương pháp giáo dục “ngoại nhập” – có khi cái hay thì không tìm ra, còn những cái không phù hợp với trẻ Việt, với văn hóa Việt thì cắm đầu áp dụng ! Đến khi gặp phản ứng tiêu cực từ đứa trẻ thì bắt đầu “hoang mang” hay đổi qua kiểu khác !
Thế nhưng làm sao để có thể nuôi dưỡng một đứa trẻ “thuần Việt” với những sự phát triển tâm sinh lý trong một gia đình mà từ những lời ăn tiếng nói, cách cư xử cho đến chế độ ăn uống cũng thuần Việt lại có thể tiếp nhận những tác động giáo dục của phương pháp giáo dục đến từ một nền văn hóa khác ? Hay chúng ta cho rằng, dạy con theo kiểu Nhật thì cứ dạy vì nó “ hay tuyệt” còn con cái thì cứ việc cư xử như một đứa trẻ Việt Nam, có sao đâu ? Hoặc cố gắng “Tây hóa” cho nó “ soang” ?
Hãy thử nhìn cách một đứa trẻ chào một người khác, chào một người bạn, cách đứa trẻ ăn uống và nói chuyện với bố mẹ … Trong một gia đình người Nhật, người Mỹ, người Pháp… với một gia đình người Việt… Không khó để nhận ra những sự khác biệt . Như vậy, cái nếp ăn, nếp ở đó có phải là giáo dục không ? Chúng ta liệu có thể dạy con ứng xử theo kiểu Nhật, kiểu Do Thái, kiểu Mỹ trong một bữa cơm gia đình Việt Nam hay khi tiếp xúc với một người Việt Nam khác, vừa đên chơi nhà ? Vậy nếu không thể ứng xử “ theo đúng phương pháp giáo dục” tiên tiến của nước ngoài vào các sinh hoạt hàng ngày tai nhà mình, thì chúng ta dạy trẻ bằng các phương pháp ấy để làm gì ?
Đã có khá nhiều sự xung đột văn hóa giữa giới trẻ và người lớn tuổi và cũng không ít sự xung đột trong các quan hệ bố mẹ và con cái, đôi khi dẫn đến các bi kịch vì chúng ta chưa tìm ra được cách dung hòa giữa các hệ tư tưởng mà chúng ta cho là văn minh, tiên tiến đến từ phương Tây với những triết lý mà chúng ta thường cho rằng lạc hậu, chậm tiến của nền văn Minh Đông phương hay bản địa. Có một điều ly thú là khá nhiều thế hệ khi còn là thanh thiếu niên, thì thường có những quan điểm rất Tây, tự cho là rất tiến bộ, văn minh .. thế nhưng sau khi lập gia đình, bắt đầu có con và trở nên lớn tuổi, thì lại dần dần quay lại các cách giáo dục áp đặt và lạc hậu của bố mẹ mình khi xưa lúc nào không biết, và chúng ta cho đó là tự nhiên !
Cũng có không ít gia đình Việt đã tây hóa rất nhiều trong cách sống, trong cách nuôi dạy con ..thậm chí là trò chuyện với nhau và với con bằng tiếng Pháp, tiếng Anh . Con cái đi học trường quốc tế , ăn uống theo kiểu Tây, ngủ phòng riêng, lên mạng chatchit với bạn bè khắp thế giới …chỉ thích đọc sách, xem phim, nghe nhạc nước ngoài ! Nhưng trong cách ứng xử vẫn còn có những suy nghĩ và hành động theo kiểu người Việt . Chính điều đó đã làm chúng ta khó xử và lúng túng trong cách giáo dục Vỏ tây ruột Việt để rồi vẫn vấp phải những chống đối của đứa con, hoặc có khi lại bị chúng “ leo lên đầu” hồi nào không biết ! vì Dady và Momy vẫn chỉ là hai ông bà với cái “ hồn Việt” lạc hậu hay chuyên chế của mình.
Hiện nay các phương pháp hay đúng hơn là tinh thần triết lý giáo dục của các phương pháp được du nhập trực tiếp qua các tài liệu dịch thuật mà chỉ cần dịch suông sẻ, đọc không sai văn phạm và ngữ pháp tiếng Viêt là đã hay lắm rồi, còn làm sao để Việt hóa được các sách đó thì ..đường còn xa lắm ! Do chưa Việt Hóa được cho nên dù có đọc thiên kinh vạn quyển, có nói ra các lý thuyết giáo dục rất chuẩn ISO, thì các chuyên gia giáo dục, tâm lý , đặc biệt là các chuyên gia tốt nghiệp từ nước ngoài ( đó là một cái chuẩn để đánh giá, nâng cao giá trị ) …khi tổ chức các khóa huấn luyện chuyên đề dù đã giảng rất hay . rất chuyên nghiệp..thế nhưng để đi được vào lòng người học là người Việt Nam, và hơn nữa là làm sao cho những học viên đó, khi tiếp nhận các kiến thức nuôi dạy con đó, có thể mang về dạy con cũng rất trơn tru mượt mà và có hiệu quả thì lại là một điều tưởng không khó – hóa ra khó không tưởng! Vì chuyên gia đó giảng rất đúng, nên không thể trách họ đươc, nên thường người học chỉ có trách mình là đầu đất, nên lại đợi đến các khóa sau, hay các khóa khác để học tiếp mà không nghĩ rằng việc chuyển hóa các phương pháp giáo dục từ nước ngoài để đồng hóa được với quan điểm sống của người Việt, trên đất Việt là điều không đơn giản chút nào nếu chính người dạy không có được một nền tảng triết lý giáo dục thuần Việt trong tâm hồn !
Vâng – đã đến lúc đi tìm lại cái dân tộc tính của mình với cái nhìn tích cực, để lấy lại các giá trị văn hóa mang bản sắc Việt. Không phải là ở các áo dài cách tân mà lại giống như áo Tàu hay áo Tây, không phải ở những cái Tên nửa tây nửa ta mà đọc lên không biết là người gì, cũng càng không phải ở các lời phát biểu phải chêm vào đó vài từ tiếng Anh để chứng tỏ đẳng cấp. Mà là ở các biện pháp Việt hóa các phương pháp giáo dục có giá trị từ bên ngoài đưa vào đất Việt, sao cho nó ăn ý với cái hồn Việt ở bên trong từng mái gia đình, sao cho nó hòa đồng được cái văn hóa gia đình “ Lệnh ông – Cồng bà” để “ đầu xuôi – đuôi lọt” nhắm giúp cho một đứa trẻ Việt Nam lớn lên với sự hãnh diện “ Tôi là người Việt Nam” thay vì cứ phải mãi cúi đầu đi trong một đêm dài bất tận tại một đất nước có đủ thứ nhập nhằng !
Với những áp lưc trong cuộc sống hiện nay, tình trạng trầm cảm không còn là một điều xa lạ ở bất cứ độ tuổi nào. Trong giai đoạn ban đầu khi trẻ bắt đầu có những xáo trộn trong các sinh hoạt, nghỉ học hay trở nên xa cách, thì lại ít nhận được sự hiểu biết và cảm thông, mà có khi trẻ lại phải hứng chịu thêm những la mắng, hay ngươc lại là chiều chuộng thái quá. Chỉ đến khi các em có những dấu hiệu căng thẳng rõ ràng, thường thấy nhất là tình trạng tự cô lâp, buồn chán không còn hứng thú học tập, dễ nóng giận, sinh hoạt cá nhân trở nên thất thường…có những ám ảnh hay hành vi tự hành hạ bản thân, thậm chí là đe dọa tự sát, thì cha mẹ mới tìm đến chuyên viên tâm lý Khi đối diện với nhà tâm lý, các em thường có thái độ dè dặt, phòng thủ và rất ít tự bộc bạch, chỉ trả lời một cách đơn điệu các câu hỏi thăm dò… dần dần với thái độ cởi mở, nhẹ nhàng..nếu cần thì kết hợp với một số test về nhân cách, tư duy logic…các em mới có được sự tự nhiên hơn để bộc lộ, chia sẻ …một số bạn gái thì bắt đầu …khóc ! và đó là môt dấu hiệu tích cực.
Đối với thiếu niên , ngoài những xáo trộn về tâm sinh lý theo lứa tuổi, thì những áp lực về học tập, cảm xúc và nhất là trong quan hệ ứng xử đối với bố mẹ, thầy cô và bạn bè là những yếu tố có thể dẫn đến các rối loạn tâm lý, mà trầm cảm là trạng thái tiêu biểu. Khi các em có những bộc lộ khá rõ ràng qua các hành vi không bình thường… đến mức bố mẹ hay người thân không chấp nhận được nữa, họ lo lắng hay khó chịu vì không thể hiểu hay tiếp cận được với trẻ, và thường có những suy diễn đôi khi sai lệnh về các phản ứng hay thái độ trong cách ứng xử của các em. Nhưng cũng có những trường hợp, bố mẹ lại lo lắng trước các tuyên bố mang tính đe dọa và cho rằng trẻ có thể bị các rối loạn tâm thần. Sự lo lắng được biểu lộ qua việc hỏi han, nhắc nhở đôi khi lại quá nhiều, ngược lại với việc thiếu quan tâm trước kia, điều này thay vì giúp cho trẻ có thể bôc lộ, lại khiến cho các em khó chịu hay khép kín hơn… bởi vì phụ huynh thường yêu cầu trẻ phải trả lời các câu hỏi tại sao và phê bình hành vi của trẻ dưới góc độ đạo đức hay nghĩa vụ làm con mà quên rằng, điều đó lại đặt con vào tư thế đối lập, hoặc khiến cho trẻ trở nên khó chịu hơn, có những phản ứng thiếu kiểm soát hơn. Đây chính là điều nguy hiểm nếu cha mẹ hay nhà trường thiếu sự cảm thông và nhận biết các yếu tố tiêu cực của tình trạng trầm cảm, sẽ khiến cho trẻ cảm thấy cô đơn, lo lắng hay tức giận hơn và có những phản ứng mang tính thách thức đôi khi rất tai hại.
Yếu tố đầu tiên trong tiến trình trị liệu là lắng nghe – lắng nghe những tâm tư của bố mẹ và cảm thông với những phản ứng của các em . Thông thường, cha mẹ hay yêu cầu sự hỏi han, khuyên nhủ của nhà tâm lý. Nhưng các lời khuyên hay dạy dỗ trẻ, nếu không đưa vào đúng lúc, đúng thời điểm có thể gây tác dụng ngược. Sự lo lắng lớn nhất của trẻ là không tìm được sư cảm thông và tôn trọng. Hơn thế nữa, phải dùng môt số biện pháp thông qua các test tâm lý để hiểu được những ưu và khuyết điểm về tính cách và năng lực của trẻ, để từ đó hướng trẻ vào việc nhận ra những mặt mạnh, có giá trị tích cực để chính các em sẽ hiểu cần phải làm gì để thoát ra khỏi vấn đề của mình. Ngoài ra, việc giúp cha mẹ nhận ra, những biện pháp đối phó hay ứng xử không phù hợp với trẻ, từ đó những thay đổi này sẽ tác động đến trẻ, giúp cha mẹ có đươc những ứng xử phù hợp hơn, hàn gắn một cách nhẹ nhàng những mối quan hệ trong gia đình. Đó là mấu chốt trong tiến trình trị liệu, là giúp trẻ nhận ra nội lực của mình và cha mẹ chấp nhận thực tế cũng như thay đổi cách ứng xử , sẽ giúp trẻ thoát ra khỏi tình trạng cô lập và lo lắng của mình.
Ngày nay, áp lực học tập và những tác động xấu của xã hội rất nhiều, ngày đêm bào mòn những năng lực và ý chí của trẻ. Do vậy, thái độ tích cực nhất của cha mẹ là không đợi đến khi trẻ bộc phát tình trạng trầm cảm mới lo đi kiếm “ thầy chữa bệnh tâm lý” , mà hãy thôi đặt những áp lưc lên con, và giành thời gian trong ngày, ít nhiều để tạo ra những quan hệ tốt đẹp, cũng như tìm cách giúp trẻ được học tập và phát triền những lĩnh vực trẻ thích , chứ không phải là buộc trẻ theo những gì cha mẹ muốn. Đó là cách tốt nhất để tránh được tình trạng trầm cảm, một căn bệnh ngày càng phổ biến trong xã hội.