Ngồi nói chuyện với một bà mẹ có con nhỏ ở VT – Chị khoe là cho hai con theo học 1 trường Mầm Non theo phương pháp Montessori . Có thể nói, Mon được xem là một mặt hàng xịn nhất trong các mặt hàng giáo dục ngoại nhập. Vì khi nói đến Mon là phải nói đến Chuẩn – chuẩn từ nguyên tắc lý luận, giáo cụ, giáo án ..cho đến trường lớp, giáo viên …
Chính vì quá chuẩn, nên nếu là người hiểu biết một chút, khi bước vào một ngôi trường có trưng bầy thương hiệu là dạy theo phương pháp Mon, thì không cần biết người phụ trách quảng cáo kiểu nào, cơ sở có xịn sò cỡ nào , lớp học có máy lạnh trải thảm tới đâu , đồ chơi học cụ có nhiều tới đâu… và dĩ nhiên, quan trọng là học phí cũng sẽ tới …đâu luôn .Chỉ cần bước vào lớp, nhìn diện tích phòng, nhìn các học cụ trưng bầy , và đặc biệt là nhìn cách cô giáo tương tác với con… là ta có thể biết ngay đó có phải là Mon chính hiệu hay mon giả..cầy không.
Cũng có thể, một số cơ sở “bon chen” mua một số học cụ theo Mon ( Đắt xắt ra miếng luôn ) trang trí lớp rất đẹp … và điều đó sẽ rất tốt, nếu họ nói mình chỉ là Mẫu giáo ..chất lượng cao hay có nêm nếm chút Mon cho vui . Nhưng nếu chỉ với một vài cái kệ trưng bầy độ chục món học cụ theo Mon, để rồi nhận là dạy trẻ theo Mon, và thu học phí trên chục triệu… thì tốt nhất là đừng cho con theo học, phí tiền và phí thời gian.
Montessori là một phương pháp Giáo dục quốc tế , đầu vào là trẻ 0 – 3 tuổi và đầu ra là ..hết cấp III ! Có nghĩa là Mon giáo dục một HS hoàn thiện từ nhỏ cho đến khi trưởng thành để bước vào đại học. Điều này cũng tương tự như một vài hệ thống giáo dục quốc tế có ở Việt Nam, dạy trẻ từ Mẫu Giáo cho đến hết cấp III để sẵn sàng đi du học khi bước vào Đại Học.
Tuy nhiên, Cho đến nay vì chưa được ngành Giáo dục công nhận, và cũng chưa có đủ một số điều kiện nhất là về giáo viên, nên các trường Mon tại Việt Nam chỉ có đến cấp tiểu học. Mà chỉ có ở vài thành phố lớn. Điều đó có nghĩa là ở các thành phố vừa vừa như VT – thì chỉ có một số trường Mon cho trẻ Mẫu Giáo , chứ chưa có một hệ thống Giáo dục Montessori đầy đủ cho đến hết cấp tiểu học. Chính vì chi có ở cấp MG, và được xem là một hình thức giáo dục quý sờ tộc ! nên việc mở một trường MG gắn bảng Mon để thu HP cao là chuyện dễ dàng ! Nhưng ngoài một vài trường đếm trên đầu ngón tay tạm gọi chuẩn Mon về 2 phương diện : Học cụ và Giáo viên. Còn phần lớn các trường MG Mon khác thì chỉ có cái tên gọi cho kêu – Nếu gọi một cách chính xác đó là các trường hàng nhái ! Chẳng thà cứ dạy theo phương pháp Giáo dục Mẫu giáo bình thường, với trang bị cơ sở vật chất tốt, giáo viên được đào tạo tử tế, có lòng yêu thương trẻ … thì có thể lấy học phí cao hơn một mức cũng được mà , cần gì phải treo dê bán chó !
Ngay cả việc khi phụ huynh cho con theo học trong trường chuẩn Mon, thì cũng phải cân nhắc nếu chỉ muốn con học hết đại học chữ To, rồi sau đó chuyển qua trường Tiểu học bình thường, hay thậm chí là tiểu học quốc tế nửa mùa ( vừa dạy tiếng Việt vừa dạy tiếng Anh) thì cũng cần xem xét, vì chỉ với 3 năm MG – trẻ chưa đủ thời gian để “ ngấm” và “tiêu hóa” theo quan điểm giáo dục của Mon, và từ đó phát huy được năng lực nội tại . Có điều kiện để đầu tư cho con là điều thuận lợi ,nhưng cũng như đi mua hàng xịn với giá cao. Chúng ta cần đủ tỉnh táo để mua được hàng thật với chất lượng chuẩn. Còn không thì dàng tiền sau này cho con vào Đại học , hay để cho con đi du lịch còn sướng hơn.
Trong cách giao tiếp với con, cái khó khăn nhất của phụ huynh là không làm sao nói cho con làm theo ý mình muốn, hay chơi với các món đồ chơi có giá trị mà bố mẹ đưa ra. Có thể nói, đây là một trong những sai lầm cơ bản nhất vì hoạt động hình thành và phát triển khả năng giao tiếp của con, không phải là buộc trẻ phải làm điều mà PH muốn mà phải để trẻ làm những gì trẻ thích làm..
Nhưng để hiểu trẻ thích gì, muốn gì và có thể làm đươc gì thì lại phải có khả năng hiểu về con, hay đúng hơn là hiểu được các giai đoạn giao tiếp của con. Điều này cũng tương tự như các giai đoạn trong mối quan hệ giữa hai người yêu nhau. Ở giai đoạn sơ giao thì không thể có các màn ôm ấp, hôn hít ..mà trong giai đoạn gần cuối trước khi ra tòa tuyên án chung thân, hai người có thể tự do áp dụng.
Vậy thì giai đoạn giao tiếp của trẻ là gì ?
Đó có thể gọi là các mức độ trong việc tương tác mà đầu tiên là khi trẻ chưa hề có một hành vi nào cho thấy khả năng giao tiếp. Trẻ ngơ ngác, cô lập và không đáp ứng bất kỳ yêu cầu nào của người lớn. Ta gọi đó là Giai đoạn tự phát
Nếu thấy con ở trong giai đoạn này thì chúng ta phải hết sức nhẹ nhàng kiên nhẫn trong việc tiếp xúc, tạo ra nhiều tình huống khi chăm sóc , để từ đó trẻ bắt đầu có thể đưa ra các yêu cầu bằng cử chỉ với người lớn. Cụ thể là khi trẻ muốn gì, bé có thể nắm tay kéo đi để mong muốn được đáp ứng các yêu cầu của mình.
Trong giai đoạn biết yêu cầu, việc đáp ứng các yêu cầu kèm theo những kỹ thuật tiếp cận là điều cần thiết để giúp trẻ chuyển sang giai đoạn giao tiếp sớm. Trẻ có thể nghe, hiểu các yêu cầu của người lớn và đáp ứng lại bằng các hành động đơn giản . Đây là mức phát triển của nhiều trẻ, nếu không có quá nhiều khó khăn về giác quan thường có ở các trẻ tự kỷ.
Từ mức độ giao tiếp sớm, với những tác động phù hợp của người lớn, trẻ sẽ nâng khả năng giao tiếp lên mức độ đối tác , nghĩa là trẻ có thể chủ động đáp ứng, phản hồi và trao đổi qua lại các thông tin hay các các hoạt động giao tiếp với người khác của mình.
Như vậy, trước khi vận dụng một số kỹ thuật cần thiết để gia tăng sự giao tiếp của trẻ. Chúng ta cần biết rõ con em mình đang ở mức độ giao tiếp nào. Để từ đó mới áp dụng các kỹ thuật phù hợp.
Chơi với trẻ có dễ không ?
Việc chơi với trẻ không chỉ đơn giản là ngồi xuống chơi, hay kêu trẻ đến để dạy ! Mà phải tạo ra một yếu tố thu hút như việc bầy ra những thứ mà trẻ quan tâm, tạo ra lý do cho trẻ tham gia và . cũng cần hiểu rõ cách giao tiếp của trẻ, để có nhiều biện pháp giao tiếp khác nhau, chứ không phải một giờ “can thiệp” để “tập nói” luyện ngôn ngữ bằng các tấm thẻ tranh vô hồn.
Đầu tiên, để có thể thu hút được trẻ thì chúng ta phải biết rõ về các sở thích, biết chờ đợi các phản ứng ( đôi khi rất bất ngờ hay kỳ cục ) – Biết lắng nghe những gì trẻ phát ra dù đó chỉ là những âm vô nghĩa. Không những thế, mà còn phài những đáp ứng phù hợp với các yêu cầu mà chúng ta có thể hiểu được.
Đừng đặt những câu hỏi đại loại như con muốn gì ? con nói gì vậy ? Vì đơn giản là trẻ không thể cắt nghĩa hay nói ra mong muốn của mình, mà chúng ta hãy khuyến khích trẻ dùng các hình thức diễn đạt khác nhau qua cử chỉ, nét mặt để có thể bộc lộ được nhu cầu của mình .
Trong việc tương giao – cần phải để trẻ vào thế chủ động, trẻ có thể chơi hay làm điều trẻ muốn tùy thích, và người lớn phải biết dựa vào các hoạt động đó để trẻ cảm thấy vui thích khi được lôi kéo bố mẹ vào các hoạt động của mình – Đi theo sự dẩn dắt của trẻ là kỹ thuật quan trọng nhất cần phải nhớ và áp dụng một cách kiên trì.
Để phát triển mối tương giao tích cực , chúng ta phải biết lồng ghép sở thích của trẻ vào các mong muốn hay mục tiêu của mình. Hãy quan sát cách chơi, món đồ chơi của trẻ để dùng ngay cách chơi đó mà tiếp cận trẻ , khiến cho trẻ dễ dàng chấp nhận chúng ta hơn. Khi trẻ đang hoạt động, thì chúng ta cần diễn giải các hành vi của trẻ – “ OH, con đang cầm cái xe trong tay, đẩy nó, rồi chất hàng lên xe…nào nào, đẩy ô tô nào …
Chúng ta quan sát cách trẻ chơi và nói giống như một phóng viên đang tường thuật một trận bóng đá với các khán giả nghe trên đài phát thanh. Nhưng dĩ nhiên chỉ là các mô tả ngắn gọn và có sự lập lại.
Làm thế nào để tạo hứng thú ?
Để tạo sự vui vẻ khi ngồi chơi, chúng ta hãy làm theo hay bắt chước các hoạt động mà mình đang tường thuật, điều đó sẽ khiến cho trẻ dễ dàng hơn trong việc “ chấp nhận” chúng ta vào hàng ngũ bạn bè của em. Cũng như cũng có thể “bắt chước” chúng ta trong các hoạt động sau này. Và chỉ đến lúc đó, chúng ta mới có thể đến gần, cùng chơi đùa với trẻ đề giúp trẻ phát triển.
Bên cạnh các kỹ thuật vừa kể, người dạy khi ngồi chơi với trẻ, khi làm một điều gì đó thì chúng ta phải nhắc lại vài ba lần những điều mình nói và làm , đó là cách giúp trẻ có thể nghe và nhớ những gì mình muốn dạy trẻ.
Hoạt động chơi với trẻ là một hoạt động cùng nhau. Sau khi ta đã đẩy cái xe ô tô , xếp một khối gạch lên cao thì phải gợi ý cho trẻ bằng lời nói hay dấu hiệu để cho trẻ biết là đã đến lượt của mình . Khi trẻ đã biết luân phiên cùng nhau thực hiện một điều gì đó, cũng như biết chờ đợi khi chúng ta đang làm , thì đó có thể nói là một sự tiến bộ đáng kể .
Kỹ thuật khi chơi với con
Ngoài ra , trong việc chơi đùa, trò chuyện với trẻ chúng ta cần lưu ý đến các kỹ thuật sau :
Khi nói chuyện với trẻ, chỉ nói các câu ngắn gọn, không nói dài dòng, diễn giải hay cắt nghĩa , ngay trong việc mô tả diễn giải hành động của trẻ cũng thế.
Âm ngữ Việt Nam có các thanh âm ( sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng … ) vừa tạo cho câu nói có các âm độ cao thấp, nhưng nếu không biết cách nhấn giọng – thì nó lại có sự đều đều không gây sự chú ý cho người nghe. Vì thế nói với các từ được nhấn mạnh là một kỹ thuật cần được chú ý . ( ăn BÁNH , cho con uống NƯỚC … ) .
Để cho trẻ có thể nhớ và hiểu các từ ngữ, chúng ta cần nói với trẻ một cách chậm rãi , không kéo dài ngân nga nhưng rõ ràng .
Hãy nhớ, ngôn ngữ không chỉ là lời nói mà còn có các điệu bộ, cử chỉ . Bên cạnh đó cần có các hình ảnh, mô hình, đồ dùng mô tả và nói có minh họa cho những điều mà chúng ta cần giao tiếp với trẻ. Hãy nhớ đến các diễn giả khi nói chuyện, cách nhấn nhá và các cử chỉ minh họa sẽ thu hút được người nghe một cách tích cực.
Khi giao tiếp, không chỉ là các tấm thẻ tranh, mà còn cần đến các mô hình, đôi khi là những vật thật, và các bức ảnh màu, trắng đen, hình vẽ là điều không thể thiếu trong quá trình chơi đùa, tương tác với con.
Qua các vật thật – mô hình – hình ảnh trẻ mới phát triển khả năng hình dung – liên kết – tưởng tượng để đi đến khả năng phán đoán có tư duy. Trẻ phải được học qua hình ảnh để tăng khả năng nhận biết, phát triển vốn từ, ý tương, tạo sự ổn định , hiêu biết và có sự chọn lựa.
Chọn đồ chơi cho con thế nào ?
Một trong những điều làm cho phụ huynh cũng đau đầu không kém là việc chọn mua đồ chơi cho con – Có rất nhiều loại đồ chơi trên thị trường, vậy thì phải chọn như thế nào cho phù hợp ? Trước hết, ưu tiên cho các loại đồ chơi bằng gỗ, vừa an toàn và vừa bền là hai điều rất quan trọng. Thứ hai là công năng : Đồ chơi khi tác động sẽ tạo ra một kết quả nào đó ( phát triển vận động thô và tinh ) Đồ chơi xếp gạch, xây dựng. Đồ chơi xếp theo số lượng , đồ chơi có tính trao đổi và các đồ chơi phát triển giác quan ( Cầm/ nắm / chà xát …. ) và các đồ chơi theo luật. Ngay trong việc chơi, trẻ cũng có những mức độ phát triển khác nhau ( Thấp nhất là trẻ chưa biết chơi đồ chơi , sau đó trẻ sẽ biết chơi theo chức năng của đồ chơi. Nhưng vẫn chỉ chơi một mình trong một thời gian trước khi biết chơi tương tác và cao nhất là trẻ biết chơi giả vờ , sắm vai.
Việc dùng các loại sách bằng vải, bìa cứng có những hình ảnh đơn giản cũng là một phương tiện có ích cho việc xây dựng mối tương tác với con , qua những lúc trò chuyện, kể chuyện cho con dựa theo các hình ảnh minh họa hay đọc cho trẻ nghe….. Chúng ta cũng có thể dùng ngay các hình ảnh sinh hoạt trong các hoạt động thường ngày của trẻ tại nhà, để hình thành các câu chuyện kể, giúp trẻ hiểu rõ vị trí và các hoạt động cần có trong gia đình.
Hãy trở thành bạn của con
Việc giao tiếp với trẻ sẽ thành công khi chúng ta là bạn của trẻ, được trẻ “chấp nhận” sau một thời gian cưa cẩm dài hay ngắn tùy thuộc vào “tài nghệ” của bố mẹ hay người dạy trẻ. Nhưng chính việc trở thành bạn của trẻ sẽ là yếu tố quan trọng nhất trong tiến trình giúp con phát triển ngôn ngữ, giao tiếp theo từng giai đoạn tiến bộ của trẻ , đi từ giai đoạn tự ý ( không quan tâm đến ai ) Giai đoạn Yêu cầu ( Ý thức được sự có mặt của người lớn nhưng chưa chơi ) bước qua Giai đoạn giao tiếp sớm ( Trẻ bắt đầu biết chơi chung, chơi luân phiên ) và đi đế giai đoạn đối tác ( Biết tham gia một trò chơi giả vờ , biết cách bắt dầu, tiếp tục và kết thúc một trò chơi ). Sự phát triển giao tiếp cho trẻ là điều không dễ dàng , nhưng với tình yêu thương, hiểu biết, chấp nhận và tôn trọng, chúng ta tin rằng mình sẽ làm được.
Trong cuộc sống của trẻ VIP, có gia đình đã phát hiện và đưa con đi nhiều nơi để can thiệp – đạt được những tiến bộ nhất định . Nhưng khi xem xét về thành quả, thì có vẻ như một số trẻ chưa có được một đinh hướng đúng trên bước đường phát triển.
Một bé trai hai tuổi , ở giai đoạn đầu của hành trình can thiệp – Chưa có ngôn ngữ và giao tiếp mắt , có sở thích nghe nhạc, nhún nhảy và bắt chước những cử điệu theo nhạc trên phim hoạt hình rất tốt , nghe hiểu được những yêu cầu đơn giản . Nhận biết sự quan tâm của bố, mẹ, và bà khác nhau để có những phản ứng phù hợp – cho thấy cháu cũng có nhận thức và có khả năng đáp ứng, nếu biết xây dựng một chiến lược can thiệp phù hợp. Nhưng mẹ đưa đi can thiệp thì thấy GV chỉ tập cho bé bật âm theo hình ảnh và hầu như không có một định hướng nào cho gia đình.
Đó là một khởi đầu cho một hành trình chắc chắn là rất dài , nếu như gia đình không được chỉ ra một hướng can thiệp đúng đắn, thì sẽ lại tiếp tục loanh quanh hết trung tâm này đến đơn vị khác hoặc sẽ tốn thời gian chỉ để cho trẻ học nói bằng sự nhại lời .
Một bé trai 6 tuổi – có rất nhiều yếu tố của tình trạng Tự kỷ điển hình . Dù bố mẹ không tiếc công can thiệp – cũng đã theo học ở một trung tâm đến 3 năm – Bé có những tiến bộ về nghe hiểu, làm theo , giảm hành vi lăng xăng vô thức . Cô giáo cũng nhiệt tình hỗ trợ từ trường về đến nhà . Thế nhưng bé vẫn không thể giao tiếp bằng lời . Gia đình vẫn quyết tâm tìm nơi can thiệp để cho con biết nói . Đó là mong muốn chính đáng, nhưng phải xem xét đến các kỹ thuật, phương pháp và mục tiêu trong hành trình này , và xác định được phương hướng can thiệp, không quá chú trọng đến lời nói mà phải nghĩ đến việc phát triển giao tiếp và ứng xử cho em .
Một bạn trai 15 tuổi – coi như ở cuối hành trình can thiệp sớm , có thể nói là một điển hình cho việc giao tiếp có hiệu quả về mặt ngôn ngữ, nhưng lại chưa có kết quả về mặt nhận thức và ứng xử . Ban ấy sau 7 năm can thiệp giờ đã nói tốt, biết hỏi thăm ông bà , trả lời được các câu hỏi đơn giản ,dù ngọng nghịu như người nước ngoài nói tiếng Việt, biết đọc viết, làm toán trong phạm vi 10, dù cho khả năng so sánh lớn bé, cao thấp còn hạn chế … Đã biết tự ăn uống, tắm rửa, cùng các hoạt động cá nhân.
Đây cũng là kết quả của một quá trình can thiệp tích cực của 1 cô giáo trong hơn 3 năm gần đây – Nhưng về khả năng vận động tinh cầm viết và vẽ thì cũng như một trẻ lên 5 – và cũng chưa biết dùng tiền để mua hàng, có những hành động xã giao chưa phù hợp. Điều này cũng chỉ ra một hạn chế trong chiến lược can thiệp cho một trẻ VIP bước vào tuổi thiếu niên.
Điều gì rút ra từ 3 trường hợp, điển hình cho 3 thời điểm hay giai đoạn can thiệp cho trẻ VIP ? Một bạn ở khởi điểm, một bạn đang trên đường đi và một bạn có vẻ như đã xong một lộ trình can thiệp ?
Đó chính là điểm khó khăn cốt lõi của trẻ tự kỷ – Khả năng giao tiếp và sự thích nghi với môi trường xung quanh. Các bạn ấy đều được can thiệp có kết quả trong một phạm vi nhất định – Thế nhưng, do chưa xác định được đâu là điểm mạnh, điểm yếu, vấn đề cốt lõi của năng lực giao tiếp là gì – mà gia đình dù đã rất nỗ lực , kết quả vẫn chưa được như ý muốn.
Chính vì thế, việc can thiệp cho trẻ Tự kỷ không đơn thuần là những chiến lược can thiệp tốt và những giáo viên giỏi, mà còn cần có những am hiểu từ phụ huynh – Đây là điều mà không phải PH nào cũng nhận ra – PH không phải là nhà chuyên môn, nhưng cần biết cách tác động với con ngay trong các hoạt động hàng ngày tại gia đình, và xây dựng cho con một không gian sống tích cực với những cấu trúc ổn định tại gia đình .
Với các GV thì cũng phải có một quan điểm rõ ràng về vai trò của mình . Chúng ta đều mong đợi tấm lòng yêu thương con trẻ, và sự niệt tình điều đó là vô cùng cần thiết nhưng đừng lẫn lộn giữa vai trò người thầy và vai trò người Mẹ . Chúng ta yêu thương trẻ như mẹ yêu con, nhưng chúng ta không có quyền xem mình là mẹ đứa trẻ ! Giáo viên cũng cũng không nên can thiệp, tác động với trẻ một cách cứng nhắc, theo đúng “bài bản” về giờ giấc và chương trình, kế hoạch, mà phải linh động và tích cực với nhiều “chiêu trò” khác nhau để tác động lên trẻ trong bất cứ lúc nào, bất cứ vị trí nào trong cơ sở giáo dục của mình và luôn chú ý đến kỹ năng giao tiếp ứng xử, hơn là chỉ chú ý đến khả năng phát âm.
Để một chương trình can thiệp đạt đến kết quả tốt , chúng ta phải có một môi trường sống được tổ chức một cách linh hoạt và tích cực, từ các giờ can thiệp cá nhân, các buổi hoạt động nhóm nhỏ, các giờ phát triển kỹ năng cá nhân và nhất là có không gian để vui chơi và vận động. Dĩ nhiên là không thể đòi hỏi ở những căn phố nhà ống, chung cư trong các tòa nhà cao tầng tại thành phố lại có được sân chơi thoáng đãng ngoài trời. Cũng không thể đòi hỏi những trang bị đầu tư hiện đại và đắt tiền để có được những hiệu ứng tốt nhất trên trẻ theo mong đợi , dù đây cũng là những điều nếu có được, sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi. Nhưng, sự hiểu biết và chấp nhận là phải có , sự hiểu biết đến từ những chiến lược vạch ra do các nhà chuyên môn, và từ các tài liệu, sáhc vở mà người GV cần tham khảo và am hiểu. Từ đó mới có thể định hướng được sự phát triển cho trẻ như thế nào.
Sự hiểu biết phải đến cả từ phụ huynh để cùng với giáo viên dắt tay đứa trẻ đi trên một con đường với những mục tiêu xác định trong từng giai đoạn. “ Nhóm can thiệp” này cần phải biết được năng lực, nhận thức và sở thích của con để giúp con vui vẻ, thoải mái đi theo các định hướng đã được vạch ra .
Điều quan trọng hơn nữa là hãy chấp nhận thực tế, đừng mơ mộng các phương pháp thần kỳ, đừng so sánh con mình với những trẻ khác, đừng hy vọng nhiều vào các kỹ thuật, phương pháp thiếu chứng cứ khoa học, đừng tốn tiền đầu tư vào các hành trình đi tìm thầy, tìm thuốc …Vì nếu có thì nó đã giải quyết cho tình trạng này từ lâu rồi . Tự kỷ có rất nhiều mức độ nặng, nhẹ khác nhau vì thế việc tác động, can thiệp cũng cần phải có những mức độ và mục tiêu khác nhau – từ thấp đến cao và tuần tự nhi tiến. Nhưng hầu như mọi trẻ VIP, đều có một khó khăn cốt lõi – đó chính là khả năng tương tác, giáo tiếp xã hội và thích nghi với môi trường xung quanh.
Đừng vì mặc cảm con mình “có bệnh” mà “bế quan tỏa cảng” nhốt con trong nhà rồi mời giáo viên giỏi đến dạy. GV dù giỏi đến đâu cũng không thể thay thế một cộng đồng can thiệp tích cực bên ngoài. Nhưng cũng không phải cố gắng tìm cho được trường hay, thầy giỏi, sau đó là “trăm sự nhờ thầy” bán cái luôn cho nhà trường, GV muốn làm gì thì làm, kể cả chuyện thay mình làm mẹ của con luôn .
Ước mơ cho trẻ tiến bộ là một ước mơ chung, từ bố mẹ đến giáo viên và các nhà chuyên môn. Nhưng trong bối cảnh xã hội hiện nay, thì gia đình vẫn là nơi đứa trẻ cần được quan tâm để phát triển đầu tiên, không phải chỉ là việc nói được, kêu được hai tiếng Mẹ ơi, hay cố gắng cho con hòa nhập vào lớp Một, mà là sự phát triển về khả năng thích nghi và tương tác với bố mẹ cùng cộng đồng xung quanh.
Nỗ lực từ bản thân phụ huynh là rất lớn và cần thiết, nhưng cần có sự hiểu biết và chấp nhận tình trạng của con mình để có những chiến lược và mục tiêu phù hợp , chứ không phải cứ loanh quanh đi tìm đủ các phương pháp “thần kỳ” của các “thần y” để điều trị cho con khỏi bệnh ! Mà nên cùng với nhà chuyên môn, nhà trường và giáo viên bàn bạc, đưa ra những kế hoạch phối hợp cùng nhau để giúp cho con tiến bộ từng chút một trong một thời gian không thể ngắn – Hãy luôn nhớ: CÙNG NHAU– chúng ta sẽ làm được.
Đã từ lâu, ai cũng biết chứng tự kỷ là những rối loạn về phát triển – Nhưng vấn đề của trẻ không chỉ là sự khó khăn về diễn đạt, những hạn chế về nhận thức, cách xử lý cảm giác không ổn định, sự mất quân bình về cảm nhận bản thân … mà còn là những điều khiến cho trẻ tự kỷ bị hiểu lầm, bị kỳ thị và cô lập, xa lánh …đó là những vấn đề về giao tiếp với những người xung quanh, ngay cả với người thân trong gia đình.
Con người là một sinh vật xã hội , phải được sống và lớn lên trong cộng đồng –từ cộng đồng nhỏ bé nhất là gia đình, cho đến những cộng đồng học đường và xã hội – Ai cũng biết câu “ Mồm miệng đỡ chân tay” những người dẻo miệng, hoạt ngôn thường chiếm được nhiều ưu thế trong cuộc sống – Không phải là họ giỏi, họ có tài gì nhưng nhờ khéo nói – có thể sẽ chiếm được nhiều cảm tình với mọi người, dễ nhận được sự ủng hộ thậm chí là tung hô của người khác. Dale Carnegie chỉ nhờ khéo miệng và có tài viết, đã thành công trong thương trường và viết ra những cuốn sách dạy cách xử thế ( Đắc Nhân Tâm ) bán chạy nhất thế giới. đem lại sự thành đạt cho nhiều người.
Nhưng với trẻ Tự kỷ, thì khéo miệng, giỏi ứng xử là điều không tưởng – Có một diễn giả tài năng,đi khắp thế giới phổ biến một phương pháp can thiệp cho trẻ Tự kỷ, thu hút được hàng ngàn người đến nghe, đã tự nhận mình là tự kỷ, nhờ phương pháp này mà khỏi hoàn toàn, và còn trở thành người giảng dạy – truyền lửa cho phụ huynh với một cái giá không hề rẻ ! Có thể đó là một trường hợp hãn hữu có một không hai ! Vì người tự kỷ có thể cũng thành công trong một số ngành nghề – nhưng chưa hề có ai thành công về khoa ăn nói !
Không chỉ là kém ăn nói, không xử lý được các vấn đề về ngôn ngữ , mà đứa trẻ hay người tự kỷ còn không thể hiểu được những câu nói đùa, những lời nói dối một cách tự nhiên và dĩ nhiên là cũng không hề biết nói dối mà khiến cho mọi người tưởng là thật. Cũng chính vì kém cỏi từ cách diễn đạt, cho đến vụng về trong cách ứng xử , nên cho dù có được can thiệp, trị liệu tốt đến đâu thì người tự kỷ cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường, hay trong một cộng đồng có sự bao dung, hiểu biết và chấp nhận sự kém cỏi của họ qua những cách ăn nói thật thà đến ngây ngô, dễ mất lòng khi chỉ biết dùng những từ cộc lốc, hay ngược lại, dài dòng lôi thôi, nhiều lời mà ý nghĩa chẳngcó gì !
Tự kỷ là một rối loạn phức tạp – không chỉ đơn thuần qua những biểu hiện như hạn chế ngôn ngữ, rối loạn hành vi và bất ổn về nhận thức, mà nó còn rất nhiều những vấn đề xung quanh chuyện ứng xử và giao tiếp của những đứa trẻ này. Có trẻ thì học hành tốt, thậm chí là giỏi ! Nhưng trong lớp không biết chơi với ai, có giao tiếp thì chuyên môn bị bạn bè bắt nạt và lợi dụng. Trẻ có thể thích bạn này, ghét bạn kia , nhưng không biết cách làm cho những bạn mà mình thích được vui lòng, để có thể thích lại mình – Trẻ có thể dễ dàng bi bạn cho vào tròng, để trở thành thủ phạm trong các trò quậy phá làm thầy cô khó chịu, dù thực sự trẻ chỉ là nạn nhân .
Đã thế, trẻ lại có những sở thích và những cử chỉ không giống ai – điều này thì tùy vào mức độ mà sự bộc lộ về sở thích và các hành vi kỳ quái có rõ nét hay không ! Lúc nhỏ, trẻ có thể rất mê các loại xe đồ chơi – lớn lên thì lại say mê các loại huy hiệu , logo của xe hơi – chỉ cần nhìn qua một cái là biết ngay xe gì, hiệu gì – Có trẻ thì lại thích về lịch sử các cuộc chiến tranh hay sưu tầm ..các loại côn trùng . Rất đa dạng, phức tạp và …không giống ai !
Có lẽ trên thế giới, những nghiên cứu và các phương pháp can thiệp về tự kỷ chiếm một tỷ lệ không nhỏ, hàng năm lại có một ngày Thế giới nhận thức về chứng tự kỷ – thế nhưng cho đến nay, hàng cả trăm năm đã trôi qua kể từ khi BS Jean Marc Itard phát hiện ra tình trạng này từ những năm 1774 cho đến nay, thì Tự Kỷ vẫn chưa được thấu hiểu một cách trọn vẹn ! Thậm chí là ngay cả Các cẩm nang gối đầu giường cho các nhà chuyên môn là ICD 10 – và DSM IV cũng chưa có được một thuật ngữ hay định nghĩa đúng nhất về tình trạng này, để rồi đến khi phiên bản DSM 5 ra đời , người ta lại có vài sự sắp xếp để phân loại các chứng tự kỷ này khác với các phiên bản cũ . Biết đâu, vài năm nữa lại có DSM 6 ra đời và lại sắp xếp các khái niêm về tự kỷ một lần nữa ?
Để chẩn đoán một đứa trẻ tự kỷ, người ta đòi hỏi phải do các nhà chuyên môn được phép đánh giá, và phải có đủ các dấu hiệu cần thiết …. Thế nhưng, nếu không đủ các dấu hiệu này, hay có những dấu hiệu cá biệt khác – Bởi vì cũng như dấu vân tay, chưa có trẻ tự kỷ nào giống hệt nhau về mức độ và biểu hiện và vì thế , nếu không gọi là tự kỷ thì sẽ gọi là gì ?
Cái dấu hiệu rõ nhất chính là khả năng giao tiếp xã hội – khả năng thích nghi và linh hoạt – khả năng kiểm soát cảm xúc và ý chí vượt khó mà hầu hết các trẻ tự kỷ đều yếu kém, nếu không muốn nói là không có ! Trẻ có thể được phát hiện sớm, can thiệp tích cực bằng các phương pháp khoa học – Trẻ trở lại ở mức độ “gần như” là bình thường – đi học được, nói năng được, nhiều cảm xúc, khả năng ứng xử cũng tốt – nhưng sau khi vượt qua đươc “cửa ải” lớp Một – vào học từ lớp Một cho đến lớp Năm, trẻ cũng có thể “vượt qua” với sự châm chước – mặc dù năm nào thì bố mẹ cũng phải vào lớp, mua chuộc từ bạn bè cho đến các thầy cô, để “thông cảm” cho em nó ! Bố mẹ vất vả ngược xuôi để “chạy” cho con một chỗ ngồi trong lớp – cả việc chạy một cái giấy “chứng nhận khuyết tật trí tuệ” để được “qua phà” trong các môn học đòi hỏi sự tương tác – Có những em rơi rớt dọc đường, có những em lên được các lớp ở cấp 2, thậm chí cấp 3 . Thế nhưng, hàng năm, hàng tháng và cả hàng ngày, bố mẹ phải “nghiến răng” trào nước mắt – để đỡ đòn cho con trong “cuộc chiến giao tiếp và ứng xử” với bạn bè chung quanh và cả thầy cô trong trường !
Có những chuyện hết sức là bình thường, đơn giản với những trẻ khác – nghịch ngợm, hỗn láo, lười biếng, học dốt … thầy cô, bố mẹ đều có “thuốc chữa” được hết. Tùy theo mức độ mà có những biện pháp kỷ luật thích ứng – Nhưng với trẻ tự kỷ thì không ! Những lý lẽ và những lời khuyên đầy tính nhân văn và đạo đức, hay những biện pháp kỷ luật như đòn roi, cấm túc, bắt chép phạt, đuổi ra khỏi lớp …thậm chí là đuổi học đều có thể có tác dụng với mọi học sinh trừ khi đó là một bạn tự kỷ. Bố mẹ các em đã trải qua trăm cay nghìn đắng, để có thể đưa em vào trong một lớp học … nhưng sẽ có một ngày chỉ vì một hành vi, dù đó là hành vi không thể chấp nhận được ở một trẻ bình thường như chuyện hỗn láo với thầy cô, hay bùng nổ với đủ mọi hình thức khi vượt quá ngưỡng chịu đựng của em – thì có thể lại phải đưa con quay về nhà, để bố mẹ “sống chung cùng tự kỷ”
Trong luật pháp của bất cứ nước nào có nhân quyền – thì người ta không bao giờ buộc tội một người tâm thần về những hành vi do họ gây ra ! Thế nhưng, tự kỷ có là bệnh tâm thần không ? Đúng và không đúng ! Đúng là vì nó được sách DSM 5 xếp vào trong nhóm các bệnh về tâm thần – không đúng là vì người ta không thể “cách ly xã hội” hay nhốt các em vào trong các BV Tâm Thần – trừ những trường hợp nặng phải được chăm sóc riêng – Nhưng người ta cũng không thể kiểm soát hết các hành vi một khi đã bùng nổ ở các em . Điều tốt nhất là đừng tạo cơ hội cho các hành vi đó bùng nổ và khi nó đã xảy ra, thì hãy biết chấp nhận và giải quyết một cách đơn giản nhất trong khả năng có thể. Đã có những người tự kỷ khi ra ngoài đường phải đeo tấm bảng : Tự kỷ – xin đừng đánh ! Bởi vị họ không biết giao tiếp, ứng xử và không kiểm soát nổi các hành vi kỳ quái của chính mình. Cũng đã có những học sinh, dù được chấp nhận cho vào lớp, nhưng vẫn bị cô lập, bỏ rơi và thậm chí là bị buộc cho những cái tội mà chính bản thân em cũng không hiểu đó là cái tội gì ?.
Một trường hợp – vi phạm đạo đức không thể chấp nhận được là tát cô giáo khi bị cô tịch thu điện thoại – có thể đó là một học sinh “ vô kỷ luật” “mất dạy” do được bố mẹ cưng chiều, mà đã dẫm lên những giá trị đạo đức , đủ để bị kỷ luật bằng các hình thức cao nhất ! Thế nhưng, nếu như đây là một học sinh có yếu tố tự kỷ, không kiểm soát được hành vi của mình thì sao ? – Dư luận ồn ào đưa ra đủ loại mức án khác nhau – Trong đó không thiếu có những lời phán xử , chứng tỏ sự kỳ thị và sự kém hiểu biết về chứng tự kỷ còn rất nhiều trong cộng đồng – Tự kỷ hả ? nhốt nó vào bệnh viện tâm thần – Tự kỷ gì nó, láo hỗ như thế mà gọi là bệnh à ? Chạy được cái giấy rồi muốn làm gì thì làm à …v.vvv Rất nhiều thành kiến, rât nhiều sai lệch không chỉ đến từ những kẻ chuyên đấu tố trên mạng, mà ngay cả ở các nhà giáo dục, các chuyên gia …. Cũng không thể lý giải nổi những khó khăn, hạn chế và phức tạp về tình trạng “mất quân bằng trong ứng xử” của các bạn VIP .
Khổ thay, các Phụ huynh cũng không còn biết chọn lựa như thế nào khi con mình là một đứa trẻ đặc biệt. Họ đã xù lông nhím để bảo vệ con về mọi mặt, họ cũng đã lên bờ xuống ruộng trong việc tìm thầy tìm thuốc, tìm trường cho con – để hy vọng con thoát được chứng tự kỷ, hòa nhập xã hội như bao nhiêu lời nói có cánh của các giới có thẩm quyền đã đưa ra, đã hứa hẹn ! Nhưng còn sự kỳ thị và hiểu lầm về khả năng ứng xử kém cỏi của con thì họ …chịu ! Sau khi tai nạn ( đánh bạn, đánh thầy cô hay có các trò kỳ cục khác ) trong một thời điểm nào đó, thì họ chỉ biết ..bê con về nhà ! tan tành giấc mộng hòa nhập !
Thế nhưng, tại sao không nghĩ khác đi , làm khác đi và đối xử với trẻ tự kỷ khác đi – Yêu thương ? được – thấu hiểu ? à cũng hơi khó , nhưng cũng ráng – Tôn trọng ? Đùa à , cái thằng to đùng mà đầu óc như trẻ lên ba, không biết cách cư xử, hỗn hào láo lếu mà kêu là phải tôn trọng ? Còn chấp nhận ? Không bao giờ ! Giá nào cũng phải “trị liệu” phải chữa cho khỏi ! Vâng – xong rồi ạ ! Tự kỷ vẫn là tự kỷ – Hàng năm vẫn rần rộ tổ chức nào là chạy bộ vì tự kỷ, nào là in khăn may áo, viết khẩu hiệu vì tự kỷ …. Nhưng vẫn cứ phải lên TV để giải thích – theo DSM 5 thì những dấu hiệu của tự kỷ là ..ABCD, và phải can thiệp, giáo dục để trẻ tự kỷ có thể hòa nhập cộng đồng . Còn nó có hòa hay có nhập được hay không thì kệ nó, đó là chuyện của gia đình và bố mẹ các em phải lo, không phải là chuyện của nhà chuyên môn .
Hành trình hòa nhập cho trẻ tự kỷ còn xa lắm – 10 năm, 20 năm hay hơn nữa cũng thế thôi nếu chúng ta không thay đổi ? Thay đổi cái gì ? thay đổi cách ứng xử với các em – chứ đừng bắt các em phải thay đổi cách ứng xử vì chúng ta ! Đơn giản như đang giỡn – nhưng không hề dễ dàng ! Vì phá vỡ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ nhân nguyên tử – Hành trình tạo cho trẻ tự kỷ một cộng đồng biết yêu thương, thấu hiểu và tôn trọng trẻ tư kỷ vẫn còn rất dài và rất xa, vẫn còn là ước mơ . Nhưng nếu chúng ta đi cùng nhau – chúng ta sẽ làm được ! Tôi đã hiểu – còn bạn ?
Lê Khanh
Trung Tâm GDĐB Diệp Quang – An Giang
Bắt đầu cho hành trình trong năm mới – sau một năm khởi hành !
Đã từ lâu – hoạt động can thiệp hay trị liệu cho trẻ đặc biệt, luôn có những điều “bất khả tri” đó là những điều mà khoa học không giải thích tường tận được . Thứ nhất , đâu là nguyên nhân gây ra chứng tự kỷ, hay tăng động kém chú ý , chậm phát triển – và đâu là phương pháp can thiệp, điều trị hiệu quả nhất ? Đã bao nhiêu công trình nghiên cứu khoa học có mà phi khoa học cũng có – để tìm ra nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này, nhưng chưa hề có được một nghiên cứu nào chỉ ra, đâu là nguyên nhân chính. Bởi vì tính phức tạp của tình trạng, vừa là một rối loạn về phát triển của thần kinh, vừa là những rối nhiễu về mặt tâm lý. Thậm chí là không trẻ nào giống trẻ nào dù cùng là một tình trạng.
Những đánh giá sàng lọc hay thang đo, dù khoa học đến đâu cũng chỉ có thể xác tín được tình trạng và mức độ nặng nhẹ một cách tương đối. Không hề có phương pháp hay gười nào xác tín được nguyên nhân, chỉ trừ các Lang băm hay phụ huynh biết tuốt ! Họ xác định nguyên nhân và nhất là phương pháp chữa trị rất quả quyết, họ xác định có thể giúp trẻ hoàn toàn được chữa lành ! Có điều ngay cả những trẻ mà họ có thể chữa lành, có khi không phải là trẻ rối loạn phát triển, hay có khi đó là kết quả của cả một quá trình can thiệp và họ chỉ là người đến cuối cùng, hoàn tất một số công đoạn cuối của một hành trình theo kiểu may thầy – phước chủ. Thế nhưng, chỉ với một vài trường hợp chữa lành ( theo cái nhìn của họ ) – thì đã đủ để họ vỗ ngực tự hào, dù không thể gọi đó là một biện pháp hiệu quả với chứng cớ khoa học !
Như vậy, có thể nói là đến nay chưa hề có một phương pháp nào có khả năng chữa lành, để một trẻ tự kỷ không còn tự kỷ nữa, hoàn toàn bình thường như những trẻ khác . Ngay cả một phương pháp “nổi tiếng toàn cầu” trừ chính quốc gia phát sinh ra nó – là PP Son Rise , mà người quảng bá cho phương pháp đó, với trình độ diễn thuyết như một MC chuyên nghiệp lại chính là một trẻ tự kỷ, mà người chữa lành không ai khác, là bố mẹ của ngài ! Sau những hội thảo, báo cáo nặng phần trình diễn với một chi phí không hề rẻ, họ chỉ phổ biến được một nguyên lý mà trong chừng mực nào đó, nó cũng là nguyên lý của nhiều phương pháp khác – đó là lắng nghe – tôn trọng thấu hiểu và nương theo trẻ . Thế nhưng đó chỉ là 1 chìa khóa để bước vào bên trong đứa trẻ, nếu không có các kỹ thuật khác phối hợp thì cũng không thể làm cho trẻ tiến bộ chứ đừng nói là được chữa lành.
Trông quả thì biết cây – nếu như Son Rise là một phương pháp thần thánh – và chỉ cần 1 phương pháp đó thôi, có thể biến một đứa trẻ tự kỷ không có ngôn ngữ, rối loạn giác quan trở nên một diễn giả tài năng, có thể tạo động lực cho hàng ngàn phụ huynh khắp thể giới, rồi ra tay cứu hàng trăm trẻ tự kỷ “vượt qua chứng tự kỷ” một cách kỳ diệu – thì sau bao năm phổ biến,thế giới đâu còn phải cãi nhau về các phương pháp điều trị khác nữa – Bố mẹ trẻ chỉ cần đi dự một khóa học rồi về “điều trị” cho con là ổn rồi. Trẻ tự kỷ toàn thế giới sẽ được chữa lành ! Nhưng thực tế thì sao ? – Vâng, Son Rise đến Việt Nam rồi lại đi và trẻ Tự kỷ thì vẫn còn đó.
Và rồi, ngày càng nhiều các phương pháp “điều trị” chữa lành nữa ra đời – từ những phương pháp tốn kém hàng trăm triệu cho đến các biện pháp không tốn đồng xu nào – đều cố gắng nói đến điều “bất khả tri” là sự chữa lành. Rõ ràng chữa lành phải là sự bình phục hoàn toàn – chứ không thể gọi một trẻ từ chỗ chưa biết nói, giờ nói được, chưa đi học, giờ đi học được, chưa làm được điều này, điều kia, giờ có thể làm được là chữa lành. Đó chỉ là sự tiến bộ về ngôn ngữ, hành vi, giao tiếp ,nhưng cái đích cuối cùng là khả năng tự lập hoàn toàn như một trẻ bình thường, thì không có . Trẻ không biết chơi đùa, không biết “nói láo như nói thật” trẻ không thể giao tiếp một cách tự nhiên, và nhất là trẻ không thể quản lý về thu chi, về tiền bạc về khả năng nghề nghiệp . Có ý chí và khả năng vượt khó, mà không cần đến một người cầm tay chỉ việc, hay một hệ thống hỗ trợ của xã hội .
Đó là không nói đến chuyện chẩn đoán sai lầm, trẻ chậm nói đơn thuần mà gọi là tự kỷ, để “chữa lành” cho trẻ nói được mà gọi đó là đã điều trị thành công cho trẻ tự kỷ !
Hàng năm, số lượng trẻ sinh ra và lớn lên với chứng tự kỷ ngày càng nhiều, tỷ lệ ngày càng cao thì sự lo lắng, hoang mang của phụ huynh cũng gia tăng theo cấp số cộng. Đó chính là cơ sở của những thứ gọi là phương pháp chữa lành không tốn kém với những cái danh xưng không thể nào kỳ diệu hơn ! Phải chăng không tốn kém gì ? Không đúng. Có thể là không tốn tiền nhiều, không mất quá nhiều thời gian, nhưng cái mất lớn nhất sẽ là lòng tin, là sự bình an trong tâm hồn, sự thất vọng và buông xuôi để rồi lại tiếp tục bám víu vào các ảo tưởng khác..
Đã từng có những phụ huynh, tự mình mày mò đi học và áp dụng nhiều biện pháp khác nhau cho con, có thể đạt được những kết quả tốt về mặt này, mặt khác. Họ có thể chia sẻ, hướng dẫn cho những phụ huynh khác những kỹ thuật và kể cả động lực và niềm tin . Nhưng hỏi rằng, liệu cháu khi lớn khôn, có khả năng tự lập hay không ? Thì nếu là một người có lý trí và lòng tự trọng, hẳn không bao giờ dám khẳng định, dù con họ nếu so sánh với các trẻ cùng trang lứa, hầu như không có gì khác biệt. Thế nhưng, trong sâu thẳm tâm hồn, họ vẫn nhận ra, con họ vẫn mãi mãi là một đứa trẻ thơ trong thân xác của một người trưởng thành khi con lớn lên.
Có một bà mẹ với hoàn cảnh khó khăn vô cùng, không có kinh phí nhiều để cho con đi can thiệp, không có thời gian nhiều để ngồi chơi với con, môi trường sống lại quá bất lợi, một mẹ một con, bố bỏ rơi sống với vợ khác, mẹ con phải ở nhờ gia đình họ hàng, anh em. Việc làm chưa ổn định, thu nhập thấp không đủ ăn. Thế nhưng, điều khó khăn lớn nhất của chị không phải là những yếu tố bên ngoài, mà chính là cái nhìn của chị về đứa con , chỉ toàn thấy những điều tiêu cực, và cứ ân hận, nuối tiếc về quá khứ, giá như bà nội không cho cháu uống thuốc quá liều, không bỏ bê cháu, giá như cháu không xem TV nhiều, giá như mình có thời gian nhiều hơn cho con, giá như mình có nhà riêng…. Nhưng cái điều đơn giản nhất là hãy ngồi xuống chơi với con nửa tiếng một ngày thôi vẫn chưa làm được, thì dù không có cái giá như nào, trẻ cũng không thể tiến bộ. Trong khi mẹ cứ khăng khăng cho rằng con mình sinh ra bình thường, mà tại vì thế này, thế kia đã khiến con bị “bệnh tự kỷ” và cứ băng khoăn liệu uống thuốc bổ não, bổ thần kinh có giúp gì cho con không !
Gần 3 tiếng đồng hổ trong buổi sáng CN để chỉ cố gắng thuyết phục giúp mẹ nhìn ra những điều tích cực hơn trong cuộc sống của mình, có một thái độ, một suy nghĩ lạc quan hơn về tình trạng của con và nhất là hãy bước đi từng bước với con, mỗi ngày chỉ cần giành cho con 30 phút để ngồi chơi có mục đích với con thôi , mà sao thấy khó quá! Mẹ vẫn cứ hoang mang với những mục tiêu xa vời vợi, liệu con có nói được không, liệu con có vào lớp một được không ?
Giá như mình có được “lòng tin” của một kẻ “chữa lành” để nói với mẹ rằng – chị cứ theo phương pháp XYZ này đì, thế nào con chị cũng bình phục, cũng nói được, cũng đi học được… thì hẵn là mình sẽ thoải mái lắm , tự hào lắm. Tiếc thay, mình là một người chỉ tin vào chứng cớ, chỉ biết rằng cho đến giờ này, mọi biện pháp can thiệp chỉ là để giúp trẻ tiến bộ ! để bình yên và để vui vẻ , chứ không phải là lành bệnh!
Điều mong muốn lớn nhất chính là sự tôn trọng đứa trẻ, sự tôn trọng không chỉ đến từ bố mẹ để đừng đem con ra làm vật tế thần cho các phương pháp thần kỳ, mà còn là sự tôn trọng đến từ cộng đồng chung quanh. Đừng nhìn trẻ bằng sự kỳ thị về những hành vi kỳ cục của con và luôn giữ lòng thương hại, tội nghiệp quá để đốc thúc bố mẹ phải chữa lành cho cháu để cháu còn có thể hòa nhập với cộng đồng ! Cộng đồng không hòa nhập với cháu, sao cứ đòi cháu phải hòa nhập với cộng đồng ?
Hãy tôn trọng con người bên trong của trẻ, và hãy chấp nhận cái vỏ bên ngoài của trẻ. Đừng đòi hỏi sự chữa lành để đen lại sự bình phục giả tạo cho con, mà hãy đòi hỏi sự an yên của bố mẹ, để từng bước vui vẻ đồng hành cùng con,nhất là có thể đưa ra những mục tiêu nho nhỏ từng bước nhỏ hàng ngày, để dần dần trẻ có thể tiến bộ về ngôn ngữ, về hành vi, về giao tiếp về nhận thức bằng sự phối hợp của những nguyên tắc can thiệp có chứng cớ khoa học trong một môi trường vui vẻ và một bầu khí trong lành!
Chậm nói là Tình trạng chưa có âm và lời nói hay chỉ là những âm, những từ rời rạc vô nghĩa. Có 2 tình trạng khác nhau :
Chậm nói bẩm sinh có trong các dạng trẻ đặc biệt, với nhiều mức độ khác nhau .
Chậm nói đơn thuần : Trẻ không có cơ hội giao tiếp và thường xuyên xem TV, xem DVD nên mất khả năng nói.
Ngôn ngữ cũng không chỉ là những tiếng nói phát ra, mà nó có hai yếu tố:
Ngôn ngữ tiếp nhận ở đứa trẻ, còn gọi là ngôn ngữ nghe và hiểu.
Ngôn ngữ đáp ứng là cách mà trẻ bầy tỏ để trình bầy một thông điệp.
Đa phần trẻ có được ngôn ngữ tiếp nhận hay nhận biết mà không có ngôn ngữ đáp ứng. Như vậy sự giao tiếp bao gồm các yếu tố sau :
– Nghe và hiểu tiếng nói.
– Có khả năng đáp ứng tiếng nói của người khác.
– Có sự trao đổi qua lại bằng lời nói hay dấu hiệu.
Vì thế việc tập giao tiếp hay tập nói, không chỉ là tập cho trẻ có thể nói ra bằng tiếng nói mà còn có thể hiểu được lời nói của người khác và đáp ứng đúng với tình huống bằng lời , nét mặt hay cử chỉ .
Ví dụ : Để trả lời câu hỏi : Con ăn bánh không ? ( hay cử chỉ đưa cái bánh ra ) – Trẻ cần đáp lại bằng : Lời nói ( dạ ăn hay dạ có ) Nét mặt ( mỉm cười gật đầu ) và cử chỉ ( giơ tay ra ) Có thể ban đầu trẻ chỉ gật, sau đó có thể là vừa gật đầu, vừa giơ tay ra . Và tốt nhất là trẻ bộc lộ cả ba hình thức.
Như vậy, khả năng giao tiếp của trẻ được hiểu là :
Đáp ứng nhu cầu của cơ thể ( ăn, uống.. ) của tâm lý ( chơi, đòi hỏi) của cảm xúc ( yêu thích, ganh tỵ, ghen ghét .. )
Diễn đạt ý muốn thông qua cử chỉ điệu bộ có sự kết hợp với lời nói.
Biết trao đổi luân phiên. – lắng nghe, hiểu, phản ứng ..
Trẻ cần HIỂU ngôn ngữ tiếp nhận, trước khi BIẾT dùng ngôn ngữ đáp ứng để cho người khác hiểu ý muốn của mình. Trẻ hay quậy phá, kêu khóc là vì không diễn đạt cho người khác hiểu được ý muốn của mình .
Để giúp trẻ HIỂU được các thông điệp bằng lời nói, nét mặt và cử chỉ của người lớn, khi giao tiếp với trẻ chúng ta không nên :
Nói nhiều, nhanh hay nói một câu dài .
Nói mà không diễn tả bằng cử chỉ – nét mặt với các biểu cảm cụ thế !
Nói kiểu nói ngọng, nói lái ..đặc biệt là nói với nghĩa bóng.
Những nguyên tắc chính trong việc tập cho trẻ khả năng giao tiếp là :
Tập cho trẻ biết chú ý lắng nghe .
Tập cho trẻ biết Bắt chước:
Tập cho trẻ biết sự luân phiên : … )
Tập cho trẻ trong môi trường tự nhiên:.
NGUYÊN TẮC TẠO SỰ CHÚ Ý :
Chú ý là nền tảng cho mọi hoạt động từ giao tiếp đến phát triển kỹ năng cá nhân. Vì thế, bước đi đầu tiên khi tập nói cho trẻ là phải hình thành khả năng chú ý.
Trẻ chỉ chú ý đến những gì mà chúng Quan tâm với sự Hứng Thú hay phù hợp với nhu cầu của mình. Vì vậy, biện pháp hiệu quả có thể gây hứng thú, quan tâm và đáp ứng nhu cầu của trẻ chính là hoạt động VUI CHƠI.
Vui chơi không phải là những hoạt động vô nghĩa theo kiểu nghịch phá với các món đồ chơi mua ngoài chợ, mà đó là những kỹ thuật được tác động một cách khéo léo với các mục đích cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của trẻ, để từ đó hướng trẻ vào các mục tiêu của hoạt động giao tiếp.
Các yếu tố tạo nên khả năng tập trung chú ý :
Tự do : Trẻ phải được tự do trong việc chọn lựa, tìm kiếm và sử dụng các món đồ chơi trong tầm tay, từ đó mới có hứng thú.
Tự ý : Trẻ được tùy ý sử dụng kể cả việc ném hay đưa lên miệng cắn các món đồ vật trong tay để dần dần tạo được sự quan tâm đến các món đồ đó.
Tự chủ : Trẻ được vận động cơ thể một cách thoải mái, không bị ngăn cản vì vậy cần có một không gian an toàn với các công cụ phù hợp.
Để giúp trẻ có thể tập trung hơn vào các công cụ chúng ta cần :
Có một không gian phù hợp không rộng quá hay bó hẹp trong góc can thiệp.
Không quá nhiều đồ chơi trước mắt, bầy biện hỗn độn mà chỉ một số món phù hợp với năng lực và độ tuổi của trẻ.
Không ồn ào với nhiều âm thanh, nhạc hay tiếng ồn làm trẻ chia trí, cũng không quá nhiều lời nhắc nhở, hướng dẫn hay yêu cầu của người lớn.
Để tạo sự chú ý của trẻ vào các đồ vật cho hoạt động tương tác, chúng ta cần để ý :
Theo sở thích : Lưu ý những món đồ chơi mà trẻ ưa thích , để dùng nó làm vật thu hút sự chú ý của trẻ.
Theo nhu cầu : Lưu ý đến các nhu cầu thể chất ( ăn/uống ) và tinh thần ( Sự an toàn, thoải mái ).
Theo thói quen : Lưu ý đến các thói quen như thuận tay trái, tìm kiếm các món đồ chơi quen thuộc, có những hành vi lập đi lập lại với một số món đồ chơi.
CÁC YẾU TỐ HẠN CHẾ :
Chúng ta hiểu rằng những khó khăn, hạn chế trong khả năng tiếp nhận ngôn ngữ của trẻ là do trẻ chưa có :
Khả năng chú ý , đây là yếu tố hầu hết các trẻ chậm nói đều kém.
Khả năng hiểu rõ những lời nói mà ta nói với trẻ
Khả năng hình dung những hình ảnh cụ thế mà trẻ có thể biết.
Vì thế, trước khi bắt tay vào việc tập nói cho trẻ , ta cần phải tập cho trẻ có được sự tập trung, có khả năng nghe được những âm – từ rõ ràng do ta phát ra , và hiểu biết ý nghĩa, công năng của những vật mà ta nói đến. Các điều này cần kết hợp với sở thích, thói quen và sự vui vẻ trong giao tiếp với người khác.
3 nguyên lý cơ bản để phát triển ngôn ngữ:
Khích lệ phát âm: Khi biết trẻ có ý định giao tiếp ta khuyến khích và chờ đợi để trẻ có thể phát ra một âm bất kỳ. Dần dần sẽ điều chỉnh cho rõ nghĩa hơn.
Chấp nhận phản ứng bằng hành động: Khi trẻ chỉ có phản ứng mà không phát âm, ta cố gắng giúp trẻ chủ động hơn. Nếu trẻ tỏ ra không biết hay không muốn giao tiếp, ta cần có những tác động kích thích (ôm ấp, vỗ về, hỏi han, cười, nhìn trẻ) .
Không bắt ép hay trêu chọc để trẻ phải nói: Trẻ có thể có những phản ứng đồng ý hay không đồng ý, đôi khi chúng ta cần có những tác động để trẻ phản đối (lấy đồ chơi, bắt trẻ ngưng làm điều mà trẻ thích) nhưng là để quan sát cách phản đối được biểu lộ bằng hành vi hay ngôn ngữ chứ không nên kéo dài, hay trêu chọc để trẻ phải phản ứng mạnh hơn.
Các yếu tố cần lưu ý khi tiến hành các hoạt động tương tác với trẻ :
*Kỹ năng tham gia trò chơi: Trẻ có thể tham gia chơi trước khi biết dùng từ ngữ. Để được như vậy, trẻ phải được tập và khuyến khích khả năng chú ý vào trò chơi.
* Sự luân phiên: Đàm thoại là một quá trình tương tác 2 chiều : lắng nghe và chờ đợi. Hãy thông qua trò chơi và các hoạt động trong nhà, tạo ra sự luân phiên cùng nhau thực hiện các hoạt động của trò chơi.
* Bắt chước: Trò chơi bắt chước góp phần to lớn trong việc học những âm thanh mới Phần lớn các em bé thích thú bắt chước. Hoạt động bắt chước nên được khuyến khích qua hành động trước khi tập cho bé biết bắt chước lời nói.
* Sử dụng âm thanh và điệu bộ cho những mục đích khác nhau: Âm thanh và cử chỉ có thể được sử dụng để “ chào” hay ‘tạm biệt”, để đòi hỏi cácvật ngoài tầm tay của trẻ, đòi hỏi sự giúp đỡ, chia sẻ thông tin, để bỏ thức ăn, đồ chơi… mà trẻ không thích.
* Sự hiểu biết: Trẻ chưa biết nói có thể hiểu những từ mô tả con người, đồ vật, hành động, hiện tượng chung quanh.
Trong việc dạy trẻ, cần kết hợp giữa SỰ VUI THÍCH và YÊU CẦU. Nếu muốn trẻ học tốt, trẻ phải có sự vui thích trong khi học, vì vậy việc hướng dẫn từ ngữ nên thông qua các trò chơi để tạo hứng thú cho trẻ tập nói.
CÁC NGUYÊN TẮC GIÚP TRẺ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
Trẻ cần học những kỹ năng mới một cách chậm rãi, những kỹ năng này bao gồm nhiều bước nhỏ, có trẻ học nhanh, có trẻ học chậm qua từng bước, không nôn nóng..
Mỗi chương trình “học” đều cần được cá nhân hoá để phù hợp với từng trẻ và gia đình .Điều quan trọng là con được dạy những điều thích hợp đúng lúc, đúng chỗ.
Cần dành thời gian để tìm hiểu xem con đã có thể làm được gì, để biết con sẵn sàng học cái gì kế tiếp. Nhiều kỹ năng có thể được dạy trong cuộc sống hàng ngày, không phải dành riêng thời gian cho việc dạy vì việc dạy được lồng trong mọi việc cha mẹ làm với con. “Dạy” nghĩa là dùng thời giờ theo cách khác đi, hiểu động cơ của việc cha mẹ làm, và yêu thích những việc làm cùng con; là giúp đỡ con chứ không phải đứng ngoài quan sát bàng quan hay chỉ tìm trường, tìm thầy đưa con đi học Nói !.
Trong giòng chảy bộn bề của xã hội, với những xáo trộn khủng khiếp của dịch bệnh, khó khăn kinh tế và thiên tai nhân tai cuồn cuộn kéo đến, đã xua đi phần nào những lo lắng, hoang mang và bất lực khi mà những áp lực về cuộc sống hòa nhập vẫn đè nặng lên đôi vai của những bậc phụ huynh trẻ Đặc Biệt.
Đã không ít người sau giai đoạn phát hiện những khó khăn về ngôn ngữ và giao tiếp, để đưa con đi can thiệp sớm, những tưởng sự bình yên sẽ dần dần đi vào nề nếp. Thế nhưng sau khi con đã khá hơn với những tiến bộ về nhận thức, hành vi để có thể bước vào cánh cửa của giáo dục hòa nhập , thì giờ đây dưới ảnh hưởng của dịch bệnh, của áp lực học tập theo chương trình mới, các em không còn được hỗ trợ cho việc học một buổi, buổi chiều có thể tiếp tục các hoạt động can thiệp những gì còn yếu, chưa thật đáp ứng các yêu cầu của ngôi trường bình thường. Các em phải nỗ lực hơn để có thể “chịu đựng” một áp lực học tập như một trẻ bình thường trong chương trình bán trú . Nếu muốn hưởng được những sự ưu đãi thì phải có giấy xác nhận tình trạng khuyết tật học tập của địa phương.
Vấn đề là tùy vào nhà trường và tùy vào địa phương mà các em sẽ có được những cảm thông hay những hạn chế , thập chí có thể bị loai trừ mặc dù theo một kế hoạch của bộ GDĐT vào năm 2013 thì đến năm 2010 sẽ có khoảng 70% trẻ khuyết tật được đi học . Tuy nhiên, ai cũng biết sự khác biệt lớn lao giữa một trẻ khuyết tật về thể chất do các khiếm khuyết của giác quan, và một trẻ khuyết tật về trí tuệ với những hạn chế về nhận thức, ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi. Ngay trong các dạng trẻ khuyết tật trí tuệ cũng có sự khác biệt giữa một trẻ chậm phát triển và một trẻ tự kỷ hay rối loạn phát triển. Trong khi đó để có thể tham gia trong hệ thống giáo dục chính thống với sự hỗ trợ về giáo dục, thì gia đình các em phải có được tờ giấy xác định khuyết tật căn cứ theo thông tư số 37/2012/TTLT ban hành ngày 28/12/2012 . Tuy nhiên, để có thể thành lập một Hội đồng thẩm định mức độ khuyết tật thì phải quy tụ đủ các thành phần quan chức, cơ quan , ban ngành, đoàn thể tại địa phương từ chủ tịch UBND Huyện/xã – Trưởng trạm Y tế cho đến cả chủ tịch hội PN hội cựu chiến binh, đoàn Thanh niên . Mà ai cũng biết hầu như rất khó có thể sắp xếp thời gian phù hợp để 8 thành viên có thể ngồi lại để đánh giá, xét duyệt .. trong khi lẽ ra chỉ cần một ông Y / bác sĩ trưởng trạm y tế và lẽ ra phải có được hai nhân vật cần thiết là một chuyên viên tâm lý lâm sàng và một chuyên viên giáo dục đặc biệt. Chính 2 nhân vật này mới có đủ trình độ chuyên môn để chẩn đoán xác định tình trạng khuyết tật hay rối loạn phát triển cho trẻ .
Do đó, Phụ huynh lại phải chạy đến các bệnh viện, các trung tâm để chẩn đoán, đánh giá rồi sau đó mang các giấy tờ về địa phương để chờ đến ngày thành lập được hội đồng đánh giá và dĩ nhiên là tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Thế nhưng, vấn đề không chỉ nằm ở đó, mà đặc biệt với các bạn có mức độ khuyết tật nhẹ, hay chính xác hơn là tình trạng nhận thức về học vấn kém hay có tình trạng khuyết tật học tập ( chỉ yếu kém một số môn hay khả năng đọc, viết, tính toán ) thì thực sự khó thuyết phục nổi “cảm nhận” của hội đồng thẩm định, trong khi đó với các bạn có mức độ nặng, khả năng thẩm định dễ hơn, thì có khi phụ huynh đã chấp nhận tình trạng con của mình, và yên tâm gửi các trung tâm giáo dục chuyên biệt, đâu cần đến giấy chứng nhận khuyết tật làm gì ?
Có nhiều em ở mức độ “chấp nhận” được, sau thời gian can thiệp có thể đi học hòa nhập ở lớp Một, nhưng khi đến lớp Hai hay lớp Bốn, Năm thì đuối sức, không thể theo được chương trình bình thường. Nếu muốn được nhà trường thông cảm, cho phép được học theo chế độ giảm nhẹ hay có giáo viên hỗ trợ, thì phải có giấy chứng nhận mức độ khuyết tật. Và đến đây..bi kịch xuất hiện, để cuối cùng có một cái kết thúc không ai mong muốn : Trẻ không theo học được ở trường bình thường, cũng không thể quay về trường chuyên biệt để can thiệp vì đã lớn tuổi cũng như với mức độ “nửa chừng xuân” ngoài một số kỹ thuật “can thiệp” trị liệu – còn cần đến các kiến thức về các bộ môn như Tiếng Việt , Toán và các môn Khoa học tự nhiên, nhưng lại phải được hướng dẫn riêng theo một số kỹ thuật đặc biệt. Điều này không phải trường chuyên biệt nào cũng có tổ chức các lớp như vậy, và cũng không có một đội ngũ có khả năng chuyển tải các kiến thức học đường bình thường nhưng một cách chuyên biệt cho các bạn “nửa hồn thương đau” này !
Bởi vì, cho đến nay thì nhu cầu can thiệp sớm cho các trẻ có chẩn đoán tự kỷ hay chậm phát triển, tăng động kém chú ý vẫn còn rất nhiều, mà đại dịch Covid đợt I đã quét đi một số cơ sở tư nhân không đủ sức bám trụ , và nếu có thể tồn tại cũng phải chuyển đổi nhiều hình thức can thiệp. Do đó, các cơ sở chấp nhận các trẻ lớn, có mức độ rối loạn nhận thức, hành vi nhẹ và cần được hỗ trợ bằng các phương pháp Giáo dục tương đương với các lớp Ba, Bốn, Năm … chắc chắn là sẽ là thiểu số, thậm chí sẽ có nhiều địa phương không thể tổ chức được. Trong khi đó thì các cơ sở Giáo dục Đặc Biệt lại hết sức đa dạng và có những chênh lệch, khác biệt về năng lực, trình độ chuyên môn khá lớn.
Chính sự đa dạng trong hoạt động giáo dục đặc biệt, vừa đáp ứng được nhu cầu xã hội, nhưng cũng vừa tạo là những khoảng trống, hay tình trạng “có đầu vào mà không có đầu ra” hoặc giải quyết các vấn nạn cho trẻ đặc biệt theo từng khúc – từng giai đoạn mà không có tính hệ thống, liên tục để có thể giúp cho một bạn có thể sau một quy trình can thiệp, dù ở mức độ nào cũng có thể có được một định hướng.
Nói về định hướng, thì có thể thấy rõ có hai khuynh hướng ! Một là cố gắng tối đa để can thiệp tích cực trong giai đoạn can thiệp sớm ở lứa tuổi mẫu giáo, để có thể đưa trẻ vào hệ thống giáo dục hòa nhập. Khuynh hướng thứ hai là với các trẻ không thể hòa nhập thì cố gắng đưa các bạn ấy vào con đường hướng nghiệp bằng các nghề nghiệp lao động đơn giản. Đây là hai khuynh hướng chủ yếu được tiến hành trong hàng chục năm nay . Thế nhưng, dù hòa nhập hay hướng nghiệp, thì cũng đều bộc lộ những khó khăn chưa vượt qua được.
Đối với khuynh hướng hòa nhập, như đã trình bầy ở trên, các em chỉ có thể đáp ứng được một hình thức giáo dục có chọn lọc, và giảm nhẹ các bộ môn không thiết yếu, đồng thời phải tăng cường thời gian hỗ trợ các kỹ năng sống để có thể thích nghi và tương tác được với môi trường xung quanh. Thế nhưng, với các chương trình giáo dục càng đổi mới, lại càng phức tạp và khó khăn mà ngay cả trẻ bình thường cũng đuối sức, học ngày học đêm, cả nhà học phụ mà cũng còn nhiều bất cập. Huống hồ gì một trẻ đặc biệt, có khi can thiệp chưa đi đến đâu, đã vội vàng “ném” vào môi trường hòa nhập và cuối cùng sau vài năm “vất vưởng” thì phải nói lời chia tay, không thể đáp ứng các tiêu chí ngày càng khó khăn của một nền giáo dục không có sự khoan dung và tôn trọng.
Đối với giao dục hướng nghiệp, thì hầu như chỉ sau khi thất bại ở môi trường hòa nhập, thậm chí là bỏ cuộc một vài năm, rồi mới tìm đến một cơ sở giáo dục can thiệp đặc biệt nào đó với đề nghị, hướng nghiệp cho cháu đi ! Trong khi đó, nếu đánh giá mức độ nhận thức và phát triển của các bạn này, thậm chí đã trên 10 tuổi sinh lý, thì tuổi tâm lý hay tuổi khôn của các bạn có khi chỉ ở mức 5, 6 tuổi …. Và như vậy thì hướng cái gì, có cái nghề gì có thể dạy cho trẻ 5, 6 tuổi với tâm lý thích thì làm, buồn hay bực thì nghỉ … Giáo viên hướng nghiệp cũng phải khóc thét với các thanh niên chưa qua tuổi nhi đồng này !
Đó là chưa kể đến một nỗi niềm là có bao nhiêu cơ sở giáo dục hướng nghiệp cho trẻ đặc biệt có đủ các cơ sở vật chất, không gian và công cụ phù hợp cũng như có các giáo viên dạy nghề đáp ứng được hai tiêu chuẩn : Biết khả năng “can thiệp” và có năng lực nghề nghiệp tốt, có thể hướng dẫn các bạn này thực hành và tuân thủ các yêu cầu của từng loại nghề nghiệp khác nhau. Hầu như vẫn chỉ là những “hình thức’ mang tính cỡi ngựa xem hoa – hoặc chỉ loay hoay trong các nghề thủ công, mỹ nghệ mà khách hàng đa phần là mua để ủng hộ, để “làm phúc” với các “bé khuyết tật tội nghiệp” chứ ít có cơ sở nào dám ngẩn cao đầu với các mặt hàng “chất lượng cao” do các bạn VIP của mình thực hiện . Vấn đề ở đây, không phải là không thể có, nhưng phải có những định hướng,tổ chức rõ ràng và các biện pháp phối hợp với các nhân sự “chuyên nghiệp” trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Cuối cùng, vấn đề tìm một “con đường tình ta đi” lại không thuộc về đứa trẻ, mà lại là cách nhìn nhận của phụ huynh và của xã hội. Ngay cả với các trẻ có mức độ rối loạn phát triển nhẹ, thì khả năng hội nhập xã hội qua con đường học vấn cũng không phải là một con đường bằng phẳng. Những kiến thức học đường, nếu không có sự chọn lọc và kỹ thuật hướng dẫn hiệu quả, sẽ không có ích gì cho các em dù ta có tìm đủ mọi cách để nhồi nhét. Hãy nhìn vào đội ngũ hùng hậu của các em sinh viên “cử nhân” đại học đang thất nghiệp hàng loạt, thậm chí phải dấu luôn cái bằng đại học để đi làm một công nhân, nếu không muốn gia nhập đội ngũ “làm cho hãng nước ngoài, được đi đây đi đó” Rõ ràng, con em của chúng ta dù có đẩy, có kéo, có hỗ trợ tối đa thì cũng lên tới lớp 6 hay lớp 9 là ‘hết cốt” mà vẫn chưa có được một kỹ năng nghề nghiệp ra hồn thì chắc chắn sẽ bước vào cái nghề “nhà báo” để báo cả nhà !
Vì thế, với sức người có hạn của từng gia đình, cần có một sự tính toán bằng cái đầu lạnh chứ không phải chỉ với “trái tim nồng cháy yêu thương” để bất chấp những khó khăn “ không thể khắc phục” của các em, mà cứ mê mải đi tìm một “phương thuốc nhiệm màu” hay cứ đưa các em vào những cơ sở giáo dục chỉ làm được một việc là “giữ trẻ” với giá cao và quên mất hay lẫn tránh trách nhiệm hỗ trợ ở gia đình của bố mẹ! Ngay cả các trường quốc tế, không phải trường nào cũng là một lối thoát an toàn cho các bạn, các bạn vào học năm thứ Nhất có thể thấy thoải mái, nhưng lần hồi càng lên cao thì áp lực càng cao, đặc biệt là áp lực về giao tiếp xã hội và thích nghi với môi trường đa văn hóa mà ngay cả trẻ bình thường nếu quá nhiều cảm xúc hay có tính hướng nội, cũng khó thích nghi kịp, để rồi lại bị cô lập trong một môi trường năng động, mà bố mẹ đã phải chấp nhận với một chi phí đầu tư không hề rẻ ! Đến một thời điểm nào đó, khi tình trạng đi đến mức độ “báo động” và nhà trường cũng không thể “nuốt được” để phải trả lại gia đình, thì lại phải đi tìm một cơ sở đếm trên đầu ngón tay để có thể giúp được cho con mình.
Chấp nhận –chấp nhận và chỉ có chấp nhận ! Gia đình chấp nhận tình trạng của con em mình, nhà trường chấp nhận các kế hoạch giáo dục hòa nhập hiệu quả và xã hội chấp nhận những tồn tại, khiếm khuyết không thể vượt qua được để từ đó có được những biện pháp ứng xử phù hợp với năng lực của các em trong chính gia đình mình. Các cơ sở giáo dục cũng đừng đặt ra cái ước mơ hòa nhập bằng con đường học vấn như một cái bánh vẽ, để rồi đánh trống bỏ dùi, khiến cho các em nửa đường gãy gánh . Xã hội cũng phải có một cái nhìn khoan dung, chấp nhận các em như một thành phần hiện hữu để không có sự kỳ thị trong đối xử kiểu thương hại hay làm phúc . Nhất là cần có những tổ chức phù hợp hơn , thực tế hơn thay vì những khẩu hiệu, những tiêu chí và những kế hoạch chỉ có giá trị …truyền thông trên TV vào những ngày lễ hội. dành cho trẻ tự kỷ hay người khuyết tật, mỗi năm cờ đèn, kèn trống vài lần rồi …qua năm sau lại làm !
Các em cần lắm sự định hướng trên một con đường, không phải là con đường hoa gấm hay chông gai, mà là con đường với những trải nghiệm đời thường một cách thực tế, với những kế hoạch cụ thể và đơn giản để được sự yêu thương thấu hiểu và tôn trọng, như bất cứ một đứa trẻ bình thường nào trong xã hội !. .
Nói về phương pháp Giáo dục Montessori thì giá trị và tính hiệu quả là điều không cần bàn cãi. Có điều nhìn qua cơ sở vật chất cùng các bộ giáo cụ tinh xảo, chất lượng và dĩ nhiên là giá cũng rất đẹp của các lớp Montessori thì tự nhiên lại nghĩ đến việc liệu phương pháp này có thể được phổ biến rộng rãi hay không và việc học có thể đi đôi được với thực hành chăng ?.
Phương pháp Montessori với quan điểm chủ đạo là lấy trẻ em làm trung tâm, tạo điều kiện cho trẻ phát triển tối đa tiềm năng trong sự tự do và vui vẻ, như vậy có liên quan gì đến những lớp học sang trọng rộng rãi và những học cụ đắt tiền mà gần như là một yếu tố không thể thiếu trong việc áp dụng phương pháp này ? Phải chăng trẻ chỉ có thể phát triển khi được hoạt động và học tập trong một căn phòng đúng chuẩn, rộng rãi với những dụng cụ chuẩn xác, xinh xắn, sạch sẽ vô trùng như phòng thí nghiệm hay sẽ được thoải mái vui chơi với những món đồ chơi tự tạo cùng với môi trường đất, cát, nước, gió và cỏ cây hoa lá trong thiên nhiên ? Theo nguyên tắc Montessori thì trẻ sẽ có 3 tiếng hoạt động trong nhà và 3 tiếng hoạt động ngoài trời. Nhưng ngay cả việc ra ngoài trời thì trẻ có được tự do vọc cát, nghịch nước , trồng rau, nhổ cỏ, bắt bướm, hái hoa trong tự nhiên… hay cũng chỉ là tự do trên thảm cỏ nhân tạo không một cọng rác, với những món đồ chơi vận động bằng composite sặc sỡ và an toàn, cùng với những bộ khung sắt thép vô hồn để có thể vui đùa ! Nếu như cơ sở đó nằm trong đô thị thì lấy đâu ra vườn cây, bãi cỏ cho các em lăn lê bò toài ?
Về cách tổ chức thì Trong phòng học có các khu phát triển các giác quan, khu toán học, khu khoa học, khu địa lý, khu ngôn ngữ, khu nghệ thuật… và khu phát triển các kỹ năng sinh hoạt hàng ngày. Môi trường Montessori được xây dựng đẹp, hài hòa, sạch sẽ, có tính trật tự, đảm bảo điều kiện cho trẻ được hoạt động tự do . Như vậy trẻ sẽ được tự do phát triển theo một khuôn khổ định sẵn đựa trên các học cụ chuyên biệt trong từng lĩnh vực và vì thế các học cụ sẽ có một vai trò quan trọng mà phải chăng nếu thiếu chúng thì trẻ sẽ khó có thể phát triển ? Các học cụ giáo dục này được Bà Montessori, đồng sự và các thế hệ tiếp nối nghiên cứu, hoàn thiện, sáng tạo và phát triển theo thời gian. Hiện trên toàn thế giới chỉ có ba công ty có bản quyền sản xuất dụng cụ Montessori . Như vậy trong môi trường học tập của trẻ, một mặt yêu cầu tôn trọng sự tự do nhưng lại là sự tự do trong khuôn khổ với những học cụ định sẵn, và nếu các cơ sở giáo dục theo phương pháp này muốn đạt chuẩn, thì chỉ được phép dùng các giáo cụ có bản quyền do 3 công ty sản xuất ? Trong khi trên thực tế thì có rất nhiều cơ sở sản xuất đều gắn cái mác Montessori vào học cụ của mình và cũng có rất nhiều cách dạy trẻ dán nhãn Montessori để thu hút bố mẹ đem con đến dù họ không nắm vững được các nguyên tắc cốt yếu và quan trọng nhất.
Như vậy, khi xây dựng một phương pháp giáo dục mới, nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện dựa trên nguyên lý tôn trọng giá trị của trẻ và phát triển năng lực cho các em – thì phải chăng Montessori lại cột các em vào những sản phẩm, những môi trường nhân tạo và cứng nhắc trong các phòng học sang trọng với những học cụ đắt tiền mà không phải khu vực nào trên thế giới, tầng lớp nào trong xã hội cũng có thể sử dụng được – Điều đó hẳn là không phải là mục đích của bà – một nhà tiến sĩ về giáo dục luôn có lòng yêu thương và tôn trọng trẻ em.
Rõ ràng là về mặt nguyên lý – nghiên cứu tâm lý phát triển của trẻ và đưa ra các lý luận khoa học thì phương pháp Montessori quá hoàn hảo, và đúng là nếu được vận dụng một cách linh hoạt thì trẻ em sẽ phát triển rất tốt. Thế nhưng nếu đóng khung trong các lớp học và các công cụ không thể thiếu – thì hóa ra là chỉ dành cho một thiểu số trẻ em trong tầng lớp trung lưu trở lên. Điều này có thể không đúng với các nước tiên tiến, có mức sống cao với thì chi phí học tập cho trẻ em là điều không phải bận tâm. Thế nhưng ở các khu vực nghèo, thu nhập thấp thì có khi cũng chỉ là một ước mơ ! Vì thế, tại sao không nghĩ đến những cơ sở với những trang bị đơn giản, rẻ tiền có mức học phí thấp, đáp ứng được nhu cầu học tập cho con em của những tầng lớp lao động, mà vẫn không sai lạc các nguyên tắc chủ yếu của giáo dục Montessori ?
Điều quan trọng hơn nữa, đó là tính giáo dục theo tinh thần Montessori ngay tại gia đình, không nhất thiết là cứ phải bám theo sự ràng buộc vào các công cụ hay trường lớp đạt chuẩn. Muốn như thế, phụ huynh cần phải làm gì ?
Theo đúng tinh thần giáo dục Montessori – Phụ huynh cần có sự tôn trọng con, khi chúng ta muốn dạy con tôn trọng mọi người thì phải biết đặt mình vào vị trí của trẻ và ứng xử một cách tử tế , lịch sự với trẻ . Trẻ cần được tự do di chuyển trong các không gian tự nhiên ngoài thiên nhiên hay trong nhà, và dĩ nhiên là khi di chuyển, trẻ có thể gặp các trở ngại hay tai nạn nho nhỏ, chúng ta cần hướng dẫn trẻ những kỹ năng di chuyển an toàn nhưng cũng sẵn sàng để cho trẻ trải nghiệm những đau khổ, thách thức mà trẻ sẽ gặp phải chứ không quá bảo bọc trẻ.
Trẻ được tự do lựa chọn những món đồ chơi, những món ăn, trang phục để mặc sau khi đã được gợi ý, hướng dẫn cách sử dụng và điều quan trọng là thông qua các hoạt động tự do chọn lựa, quyết định và chấp nhận. Trẻ sẽ phát triển được tính tự lập. Phụ huynh có thể giúp đỡ bằng cách đơn giản hóa các công việc liên quan đến con để trao cơ hội cho trẻ có thể tự mình làm các công việc như mặc quần áo, rửa tay, đi vệ sinh, dọn đồ chơi… Trong đó, phụ huynh nên để cho trẻ tự ăn, tuy có thể trẻ sẽ làm rơi vãi thức ăn khắp nơi nhưng lại là cơ hội tốt để con thực hành các kỹ năng sống cần thiết. khi trẻ tự lập làm các công việc của mình, cha mẹ hãy quan sát để có thể hỗ trợ khi cần thiết và khen ngợi nếu con làm tốt. Sự khích lệ này sẽ giúp con có động lực và hứng thú khi tự mình hoàn thành công việc dù là nhỏ nhất.
Trong việc giao tiếp với con thì phụ huynh hãy sử dụng những lời lẽ đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu và cũng biết cách lắng nghe trẻ nói, để trẻ cũng học được cách lắng nghe người khác. Trong việc chơi với con, hãy lưu ý để sử dụng các công cụ, các món đồ chơi tự tạo hơn là sắm sửa các món đồ chơi có sẵn, đắt tiền . Quan trọng hơn, đừng vì sự tiện lợi mà cha mẹ cho bé chơi những món đồ chơi được lập trình sẵn và chỉ cần bấm nút để hoạt động trong khi con không phải làm gì nữa. Hãy dùng những đồ chơi trẻ có thể cầm nắm được và giúp con tập trung thực sự trong việc khám phá những ý nghĩa và cách tương tác với các món đồ chơi ngoài thiên nhiên.
Nuôi con là cả hành trình dài cùng con lớn lên và trưởng thành. Do đó, cha mẹ đừng vì áp lực dư luận hay lời nhận xét từ mọi người xung quanh mà áp đặt những điều tiêu cực vào phương pháp dạy con của chính mình. Kiên nhẫn là một trong những điều quan trọng mà phụ huynh cần có trong hành trình nuôi dạy con. Khi ba mẹ thiếu kiên nhẫn với trẻ sẽ rất dễ la mắng, trách cứ, thậm chí đánh đòn con. Tuy nhiên, cha mẹ có biết, chỉ 1 giây mất bình tĩnh và thiếu kiên nhẫn, ba mẹ có thể vô tình làm tổn thương con. Vì thế, thay vì phản ứng giận dữ, vội vàng và thái quá, phụ huynh hãy bình tĩnh với trẻ. Cha mẹ có thể lắng nghe những chia sẻ về cảm xúc của con trước và cùng con tìm ra hướng giải quyết tích cực nhất. Có như vậy, sợi dây kết nối giữa ba mẹ và con mới thêm bền chặt.
Bà Maria Montessori đã từng nói: “Tình yêu thương trẻ vô điều kiện và đặt giới hạn cho các hành vi”. Từ câu nói của bà, cha mẹ dễ dàng nhận thấy rằng bất cứ mối quan hệ nào được vun đắp bằng tình yêu thương sẽ giúp con trẻ trở thành những công dân hạnh phúc.
Do đó, hãy đến với trẻ, lắng nghe các con bằng tình yêu thương và sẵn sàng hỗ trợ khi bé cần sự trợ giúp. Trẻ sẽ cư xử tốt hơn khi cảm thấy tốt hơn. Sức mạnh của tình yêu sẽ giúp bé thoải mái, suy nghĩ tích cực và hành động đúng đắn. Như vậy, giá trị cốt lõi của Montessori là cách chúng ta cư xử và hướng dẫn trẻ như thế nào, chứ không phải nhất thiết là bằng những lớp học “trong lồng kính” và những bộ công cụ hàng triệu đồng và phải trang bị thật đúng chuẩn !
Trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt, người giáo viên không phải người quan trọng nhất, mặc dù đó lại là vai trò được “đầu tư” nhiều nhất. Có rất nhiều phương pháp, kỹ thuật và cả quan điểm về sư phạm đòi hỏi giáo viên phải học tập và biết vận dụng một cách hiệu quả – Tuy nhiên, yếu tố thành bại trong việc giúp cho trẻ phát triển lại không do “nhân vật tài năng” này quyết định mà lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau :
Về bản thân, thì có lẽ nghề nào cũng đòi hỏi một tấm lòng yêu nghề cao độ, mới làm tốt được nhiệm vụ của mình. Trở thành một người có tay nghề cao. Nghề giáo cũng thế, nhưng nếu yêu cầu một giáo viên đặc biệt chỉ có lòng yêu nghề thôi thì chưa đủ mà còn phải yêu luôn cái đối tượng mà mình đang ra sức uốn nắn là một đứa trẻ “dở hơi” – không biết chào hỏi, thưa gởi, đã không tương tác tốt lại còn luôn làm cho mình bầm mình bầm mẩy, muốn nổi điên về những thái độ, phản ứng không giống ai ! Đã thế, còn phải luôn có tinh thần nỗ lực học hỏi, từ bạn bè, các nhà chuyên môn cho đến sách vở tài liệu và phải luôn biết rút ra những kinh nghiệm khác nhau cho từng đứa trẻ khác nhau !
Về môi trường xung quanh, thì ngoài một số cơ sở trang bị tương đối đúng chuẩn, có phòng, có sân rộng rãi và các học cụ đa đạng… Thì hầu hết là những phòng ốc không phải là trường, mà chỉ là những căn nhà phố được cải tạo phần nào với những căn phòng sử dụng không đúng công năng và các công cụ không phù hợp với đối tượng là các trẻ đặc biệt. Không phải là người tổ chức hay chủ cơ sở không chịu đầu tư, mà có khi họ cũng sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để trang bị, nhưng lại “trật bản lề” – Có một dạo, phong trào “Tâm vận động” bùng nổ, các cơ sở đua nhau lắp đặt các căn phòng chơi sặc sỡ, các khối tròn, khối vuông, quả cầu gai, nhà banh, thảm nhựa,cầu thang dốc, thang leo núi … tốn kém hàng chục thậm chí hàng trăm triệu – nhưng nó cũng giống như phòng chơi cho trẻ em trong siêu thị chứ không phải là nơi mà trẻ có thể giải tỏa những khó khăn tâm lý thông qua vận động, bởi vì đa phần đều nghĩ rằng, tâm vận động là phát triển kỹ năng vận động tinh và thô cho trẻ, thậm chí là cả các biện pháp điều hòa cảm giác cũng có mặt với các quả bóng gai và các lối đi rải sỏi có kích thước khác nhau.
Thế rồi, sau đó lại là những phòng Montessori, khi nhiều người cho rằng Montessori là một phương pháp tiến bộ trong giáo dục trẻ bình thường, thì chắc cũng hiệu quả cho trẻ đặc biệt, thế là lại bỏ ra hàng chục triệu để trang bị một phòng mon đúng chuẩn với các thiết bị tinh tế, sang trọng và có khi là bí mật – Bởi vì, nếu không phải là một giáo viên đươc đào tạo đúng chuẩn của phương pháp này thì có khi cũng không biết các công cụ xinh xắn, đa dạng kia sẽ giúp cho trẻ phát triển cái gì và ai có thể làm điều đó với trẻ. Dạy trẻ theo phương pháp Mon cũng giống như can thiệp cho trẻ trong phòng tâm vận động, không hề đơn giản như một buổi học – hay một buổi chơi bình thường ! Không phải chỉ cần có công cụ là được mà yếu tố con người là vô cùng quan trọng. Nhất là không phải tre đặc biệt nào cũng có thể áp dụng phương pháp Mon hay Tâm vận động một cách tùy tiện.
Ngoài các cơ sở “sang chảnh” có những trang bị tiền triệu kia thì còn lại những Nơi gọi là “Trung Tâm” dưới đủ loại tên gọi khác nhau – đều là những căn nhà phố và những trang thiết bị tương tự như một nhà trẻ, mẫu giáo hay tệ hơn là những đồ chơi mua ngoài nhà sách hay các tiệm đồ chơi ngoài chợ mà mục tiêu chỉ là để cho các em có cái để nghịch cho hết ..giờ, hết ngày. Cũng có những nơi, có trang bị cho các giáo viên một số công cụ khác nhau, nhưng lại không tập cho Gv cách chơi với trẻ qua các dụng cụ đó như thế nào ! thế là “món sở trường” của các cô chỉ là các tấm thẻ tranh, giơ ra cho trẻ xem và tập cho trẻ nói theo mình, lập lại những câu trả lời : Cái này là cái gì, con này là con gì, màu này là màu gì ! cao hơn chút là cùng tập với trẻ một số thao tác vận động thô và tinh cho ..vui, bởi vì mục tiêu cấp bách nhất là làm sao cho con nói được !
Một người Giáo viên không được hướng dẫn bài bản, không có sự nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ lại không được trang bị những công cụ có tác dụng cụ thể và được tập luyện với trẻ trong một không gian phù hợp thì không khác nào đem một chiến sĩ tung ra mặt trận mà chưa qua huấn luyện nơi thao trường và cũng không có đủ vũ khí cần thiết, mà lại mong chiến thắng . Nếu có chăng thì chỉ là “may thầy phước chủ” hoặc chỉ đạt được một vài sự thay đổi và nhà trường sẽ thuyết phục phụ huynh chấp nhận sự thay đổi đó như một tiến bộ , khi trẻ nói được dù chỉ là để trả lời các câu hỏi về đồ vật, con vật là coi như có thể cho “ tốt nghiệp” ra trường.
Một yếu tố khác được xem là “nhân vật phụ” nhưng lại đóng vai trò then chốt trong việc Dạy trẻ, đó chính là phụ huynh các em – Một chuyện ngược đời ! Muốn trẻ tiến bộ thì phải cho đến cơ sở can thiệp, nhưng bố mẹ lại phải biết “dạy con” ! Nhưng có thể nói là – dạy trẻ khó một thì thuyết phục phụ huynh tham gia hoạt động can thiệp cho con khó mười ! Đủ các lý do chính đáng để phụ huynh có thể “trút gánh nặng” cho giáo viên, mà lý do đơn giản nhất : Nếu tôi biết dạy con, thì cần gì tốn tiền, tốn thời gian đưa con đi can thiệp ! Như vậy thì làm sao thuyết phục ? Thôi thì cứ tới đâu hay tới đó, khi nào chánthì cho con nghỉ, mang qua cơ sở khác , sẽ ưu tiên cho nơi nào gần nhà và không đòi hỏi bố mẹ phải xắn tay áo lên !
Nhưng vấn đề không chỉ là phụ huynh cần phải biết phối hợp, hay đúng hơn là nắm vai trò then chốt trong việc can thiệp cho trẻ, mà là phải biết can thiệp cái gì và như thế nào ? Cũng có nhiều bậc cha mẹ có thiện chí, muốn cùng với giáo viên can thiệp hay thậm chí là tự mình dạy con – Nhưng dạy cái gì trước cái gì sau và dạy như thế nào lại là một thách thức không nhỏ ! Khi có những khóa huấn luyện mở ra, có nhiều người háo hức đi nghe , ôm một đống tài liệu về tham khảo, rồi lên mạng tìm kiếm thông tin, các “tuyệt chiêu” mì ăn liền để chuẩn bị một chương trình can thiệp “ Đẽo cầy giữa đường” để áp dụng đủ kiểu dạy của những trẻ khác cho con mình. Các phương pháp rất khoa học, các bài giảng rất thu hút, các kỹ thuật rất hấp dẫn nhưng để áp dụng cho con mình thì lại không phù hợp! Chỉ cần mới sửa soạn ngồi xuống dạy là nó đã chạy mất tiêu ! Đó là chưa nói đến nhiều áp lực và kỳ vọng được đặt ra mà mục tiêu là Làm sao con PHẢI NGHE TÔI , chứ ít khi nghĩ đến việc Tôi cần biết CHẤP NHẬN TRẺ như thế nào!
Người Giáo viên hay người chuyên viên thực sự là cần thiết để cung cấp và giám sát các biện pháp, các kỹ thuật cho bố mẹ biết cần phải làm gì với con và cũng nên biết – Chính môi trường gia đình, nếu biết cách thay đổi từ bầu khí đến cách tương tác, mới là nơi đứa trẻ biến chuyển và tiến bộ, còn việc trẻ đến trường, đến trung tâm,tập luyện và vui chơi chỉ là nơi trẻ phô bầy hay áp dụng những những tác động tại gia đình. Nói cách khác, người chuyên viên sẽ định hướng và đưa ra những giới hạn, người giáo viên sẽ tác động thông qua các kỹ thuật và hoạt động , Nhưng gia đình mới là nơi trẻ tiến bộ với những biện pháp thực hành do bố mẹ áp dụng, không phải là trong những giờ can thiệp khô khan, mà thông qua những hoạt động sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, tắm rửa, vui chơi và học tập tại gia đình kéo dài từ tháng này qua tháng khác . Có thể nói, Nếu trẻ chưa thực sự hòa nhập với gia đình thì cái mục tiêu hòa nhập với xã hội chỉ là cái bánh vẽ !