Giáo dục Tâm vận Động hay Tăng vận động
29/06/2016Cần Hiểu Đúng về Tâm Vận Động
09/07/2016Thế nào là Chỉ số thông minh ( IQ )
Khi nói đến trí thông minh ở trẻ em , chúng ta thường nghĩ đến một em học sinh mặt mày sáng sửa, học đâu nhớ đó, làm toán giỏi, viết văn hay, học bài nhanh thuộc … và dĩ nhiên là em học sinh đó, sau này khi lớn lên sẽ rất thành công trong cuộc sống.
Để đo lường được trí thông minh, người ta dùng hệ số IQ ( Intelligence Quotient ) – Hệ số này được đáng giá thông qua khả năng trí lực, năng lực học hỏi, khả năng hiểu và xử lý tình huống, năng lực suy nghĩ logic, phản biện, sự nhạy bén trong suy nghĩ… Trí thông minh có thể được đo tổng quát trong mọi lĩnh vực, và được đo theo từng lĩnh vực cụ thể. Khái niệm này được hình thành từ những năm 1912 và đã “ độc quyền thống trị” trong việc đánh giá phẩm chất dẫn đến sự thành công của con người trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, IQ không phải chỉ là một dạng thức duy nhất để nói về trí thông minh, Nhà Tâm lý hoc kiêm giáo sư thần kinh Howard Garner tại đại học Harward vào năm 1983 đã đưa ra thuyết Đa Thông Minh, cho thấy con người có đến 8 loại hình thông minh khác nhau. Như vậy, một trẻ được đánh giá là học kém, không thể đứng lên trả bài một cách nhanh chóng… vẫn có thể được xem là một đứa trẻ thông minh, nếu em đó giỏi về vận động hay có khả năng trong các hoạt động ngoài trời.
Đến năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient – EQ). đây là năng lực, khả năng hay kỹ năng của một người trong việc cảm nhận, đánh giá, và quản lý cảm xúc của bản thân, của người khác hay của một nhóm người.
Sau đó, trong một số nghiên cứu khoa học cho thấy chỉ 25% số người thành công là có chỉ số IQ cao hơn trung bình. Nghĩa là chỉ số IQ không giải thích được sự thành công vượt trội của 75% số người còn lại. Kết quả nghiên cứu đã loại yếu tố về năng lực chuyên môn. Cuối cùng những người nghiên cứu khẳng định rằng chỉ số EQ mới là yếu tố quyết định sự thành công trong cuộc sống và công việc của mỗi chúng ta. Có câu nói “Với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn”. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
Năng lực cảm xúc trong môi trường làm việc
Trong khi chỉ số thông minh IQ ít khi thay đổi theo thời gian, thì chỉ số thông minh cảm xúc EQ có thể được học tập và cải thiện vào bất cứ giai đoạn nào trong cuộc đời hay trong bất cứ môi trường nào. Để thành công trong môi trường làm việc, ông Daniel Goleman – người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về EQ hiện nay đã đề xuất chúng ta phải có những năng lực xúc cảm cá nhân gồm:
năng lực tự nhận biết bản thân, năng lực tự điều chỉnh, năng lực tạo động lực;
và những năng lực thông minh xúc cảm xã hội gồm:
năng lực thấu cảm với người khác và năng lực giao tiếp xã hội..
EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới.
EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai.
Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã hội.
Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
Ngoài ra, ngoài ra người ta còn thấy rằng, không chỉ là IQ hay EQ đã là đủ để đưa con em chúng ta đến sự thành công, mà còn phải có sự tác động của một yếu tố, đó là khả năng hay chỉ số vượt khó AQ
Hẳn là trong chúng ta, vẫn còn nhiều người nhớ đến em học sinh Trần Bình Gấm cư ngụ tại Sai Gòn, là một em học sinh nghèo vừa học vừa bán khoai, bán vé số, không những chỉ tốt nghiệp cấp 3 một cách xuất sắc, mà còn thi đậu vào cả 3 trường là trường Đại học Y Dược, Trung tâm đào tạo cán bộ y tế TP.HCM và trường Đại học Khoa học tự nhiên .
Trong kỳ thi tốt nghiệp năm nay, tại Thanh Hóa, lại có một học sinh đặc biệt, em Lê Thị Thắm, một thiếu nữ bị khuyết tật cả hai tay đã kiên trì vượt qua tất cả những khó khăn trong việc học, em đã tập dùng viết bằng chân đê có thể dự thi xét tốt nghiệp và xét tuyển đại học như hàng trăm thí sinh khác.
Chúng ta thấy, qua hai trường hợp trên đây, rõ ràng là các chỉ số IQ hay EQ cũng không thể giúp được các em nếu không có một sức mạnh xuất phát từ lòng kiên trì tập luyện, học tập đề vượt qua những gian khổ của khó nghèo hay tình trạng khuyết tật của bản thân .
Thế nào là Chỉ số vượt khó – AQ?
Năm 1997, nhà tâm lý học người Mỹ Paul Stoltz lần đầu tiên đưa ra 1 khái niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn sách “Adversity Quotient: Turning Obstacles into Opportunities” (AQ: Xoay chuyển trở ngại thành cơ hội). Trong đó, ông định nghĩa, AQ là đại lượng đo khả năng đối diện và xoay sở của một người trước các thay đổi, áp lực và các tình huống khó khăn.
Tại sao một số người trở nên xuất chúng, rất thành công, trong khi những người khác lại nản lòng, thất bại cho dù họ có thừa thông minh hoặc tư cách tốt? Điểm khác nhau giữa họ chính là sự chênh lệch về AQ – khả năng đương đầu và đương đầu có hiệu quả trước bất hạnh và nghịch cảnh.
Trong cuốn sách xuất bản sau đó, Adversity Quotient @ Work, bàn kỹ hơn về vấn đề tương tự, ông giải thích cụ thể hơn cách thức áp dụng khái niệm AQ, để có thể mang lại lợi ích.
Paul Sloltz đã phát triển khá nhiều ý tưởng của mình từ những nhà tâm lý học đi trước, như Abraham Maslow, tác giả của tháp Maslow nổi tiếng; từ Martin Seligman, tác giả của sách “Học lạc quan”, và Stephen R. Covey, tác giả của “7 thói quen của người thành đạt”.
Nhiều nhà tâm lý đã ủng hộ rất nhiệt tình cho thuyết AQ này. Điều này góp phần khẳng định, việc lượng hóa những phẩm chất tâm lý bậc cao là một điều có thề làm được như đã từng làm với trí tuệ (IQ) và cảm xúc (EQ).
Các dạng Thông minh vượt khó :
Paul Sloltz cho rằng, những người có AQ thấp thường dễ xúc động và dễ buông xuôi trước nhiều vấn đề trong cuộc sống. Trong khi, những người có AQ cao sẽ ít khi đầu hàng và dễ dàng trở thành lãnh đạo trong tương lai.
Ông phân định ra 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối diện với những khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Đó là: Quitter, Camper và Climber.
- Quitter: ( người bỏ cuộc ) Là những người dễ buông xuôi. Họ dễ dàng nản chí, dễ dàng từ bỏ việc theo đuổi 1 công việc, 1 dự định và cao hơn là 1 mục đích sống. Và, kết quả là thường giữa đường đứt gánh, và nhận thất bại, hoặc kết quả không như ý.
- Camper: ( người kiên trì ) Là những người chịu khó, làm việc chăm chỉ, có ý thức phấn đấu rèn luyện bản thân, và sẽ làm nhiều thứ để đạt tới 1 mức độ nhất định nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ dễ hài lòng và thoả hiệp với bản thân để thấy như vậy là đủ.
- Climber: ( người chinh phục ) Là những người có sự kiên định và hoài bão lớn. Họ luôn học hỏi, rèn luyện bản thân, nỗ lực cố gắng để đạt tới những mức độ tốt nhất có thể trong khả năng. Họ cũng thường là loại người không chấp nhận 1 tình thế sẵn có, và tìm cách xoay sở để cải thiện nó tốt hơn.
Theo đó, ông coi chỉ số đo khả năng vượt qua những điều kiện khó khăn là yếu tố lớn nhất trong những phẩm chất tạo nên sự thành công cho con người.
Theo Paul Sloltz, chỉ số AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, sự sáng tạo, năng lượng, sức khoẻ lý tính, xúc cảm và hạnh phúc của một người. Nó cũng chính là một chỉ báo về 4 mức độ cao thấp của bản lĩnh sống:
Đối diện khó khăn – Xoay chuyển cục diện
Vượt lên nghịch cảnh – Tìm được lối ra.
Làm sao rèn luyện được Ý chí vượt khó :
Theo quan niệm của nhiều người, IQ và EQ là những khái niệm “fix”, có nghĩa là phần nhiều thuộc về “thiên phú”, khó có khả năng thay đổi. Trong khi đó, AQ là đại lượng có thể được rèn luyện để “cải thiện, nâng cấp”.
Như vậy, làm sao để có thể có được khả năng vượt khó, chúng ta hãy áp dụng 6 nguyên tắc sau đây để rèn luyện AQ cho mình
- Biết khả năng hạn chế của mình khi thật sự thua kém người khác .
- Biết chấp nhận sự thất bại mà không đổ thừa hay thất vọng
- Luôn kiên định lập trường trong mọi hoàn cảnh
- Biết đặt ra mục tiêu và nhắc nhở mình phải cố gắng đạt được
- Biết hãnh diện về những thành công của mình
- Không trong chờ vào vận may của số phận
Đó là những nguyên tắc trong cuộc sống, còn với con em chúng ta, thì chúng ta hãy hướng dẩn các em trong công việc của mình, từ việc học cho đến các hoạt động trong cuộc sống, phải biết chia nhỏ các mục tiêu, chọn những mục tiêu dễ để thực hiện trước một cách kiên trì . Các em cũng cần phải hoạt động, vận động tập luyện thể lực một cách thường xuyên, biết mở rộng các mối quan hệ bạn bè và biết cách tưởng thưởng, khen ngợi với những thành công dù nhỏ bé của mình.
Chúng ta cũng nhớ rằng : Sự tự tin , biết định hướng cho mục tiêu, biết thích nghi với môi trường bên ngoài , biết học tập noi gương , có tinh thần trách nhiệm và nhất là có sự kiên nhẫn trong mọi hoạt động sẽ giúp cho các em phát huy được trí tuệ vượt khó một cách hiệu quả nhất .
Làm thế nào để nhận biết các các hệ số thông minh ?
Đến đây chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của các hệ số thông minh như IQ, EQ, và AQ và cũng hiểu rằng có thể cải thiện được các hệ số này. Nhưng công cụ gì sẽ giúp cho chúng ta nhận biết một cách khoa hoc và chính xác nhất về các hệ số này.
Đó là việc áp dụng Sinh trắc Dấu vân tay – để có thể phân tích mối liên hệ giữa dấn vân tay vào não bộ, từ đó có thể phát hiện ra những tố chất và tính cách bẩm sinh của con người. Một bản báo cáo phân tích về dấu vấn tay của con em, sẽ là một bức tranh đầy dủ các chi tiết về các chỉ số IQ, EQ, AQ, CQ .. và 8 loại hình thông minh mà các em sở hữu.
Là cha mẹ, hẳn chúng ta đã từng băng khoăn về những vấn đề như :
Tại sao có trẻ hấp thụ kiến thức nhanh và dễ dàng, lại có trẻ lại khó khăn và chậm chạp. Có những trẻ thích thú với việc học, có trẻ lại lười biếng và cảm thấy bị ức chế ? Có trẻ không cần phải học thêm và cũng có những trẻ không thể tiến bộ nếu không có sự nhắc nhở hướng dẫn của gia sư ?
Cũng có trẻ có thể tập trung tốt, trong khí có trẻ lại quậy phá ? có trẻ rất nghe lời và có những trẻ luôn chống đối ? tại sao có trẻ luôn vui vẻ và cũng có trẻ luôn cáu gắt ?
Chúng tay hãy :
KHÁM PHÁ NGAY CHÌA KHÓA VÀNG ĐỂ MỞ CÁNH CỬA TỚI CON ĐƯỜNG THÀNH CÔNG CỦA CON BẠN TRONG CUỘC SỐNG VÀ SỰ NGHIỆP BẰNG PHƯƠNG PHÁP SINH TRẮC HỌC DẤU VÂN TAY.
Những Giá trị mà sinh trắc có thể đem lại cho con cái của bạn :
- Phát hiện tố chất và tính cách bẩm sinh của trẻ.
- Phân tích các chỉ số IQ, EQ, AQ, CQ mà trẻ sở hữu.
- Phân tích 8 loại hình thông mình của trẻ trong thời kì vàng.
- Phân tích chỉ số TFRC – Thể hiện mật độ tế bào thần kinh trên vỏ não – Giá trị tiềm năng của bộ não.
- Phương pháp tiếp nhận thông tin hiệu quả VAK (Quan sát, nghe, vận động).
- Phân tích chỉ số ATD – Thể hiện khả năng tiếp thu của trẻ (Mức độ nhanh chậm).
- Thiên hướng nghề nghiệp phù hợp của trẻ.
- Hiểu trẻ để nuôi và dạy trẻ được tốt.
- Cấu trúc thùy não của trẻ (Thùy trước trán, thùy đỉnh, thùy chẩm, thùy trán, thùy thái dương).
- Các phương thức phát triển não bộ cho trẻ.
- Chỉ ra phương pháp học tập và rèn luyện phù hợp cho từng trẻ.
- Phương pháp kích thích các chỉ số thông minh cho trẻ.
Không những thế , các em còn được tiến hành các trắc nghiệm ( Test ) Tâm lý để được phát hiện một cách đầy đủ các khả năng về trí tuệ – về nhậ thức – vận động – ngôn ngữ – giao tiếp qua đó sẽ đươc hướng dẫn những biện pháp tốt nhất dể giúp các em phát triển một cách tối đa tất cả các tiềm năng có sẵn trong con người của mình.
CVTL. Lê Khanh