Dạy Trẻ hay Chữa Trẻ
24/03/2017
CHĂM SÓC VÀ THẤU HIỂU
07/04/2017
Dạy Trẻ hay Chữa Trẻ
24/03/2017
CHĂM SÓC VÀ THẤU HIỂU
07/04/2017

Hội chứng Tự kỷ được dịch từ thuật ngữ “Autism Spectrum Disorders – ASD”, để chỉ một tình trạng rối nhiễu tâm lý gây ra những trở ngại trong quan hệ, giao tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của trẻ em. Tình trạng này dù đã có ngay từ khi mới sinh ra nhưng ít khi được phát hiện, cho đến khi những rối loạn giao tiếp bộc lộ lúc trẻ bước qua lứa tuổi thôi nôi, với những biểu hiện chậm về ngôn ngữ và có các hành vi kỳ lạ với nhiều mức độ nặng, nhẹ khác nhau. Hầu như không hề có hai trẻ tự kỷ giống hệt nhau về sự rối nhiễu, và các biện pháp can thiệp cũng phải dựa trên từng cá nhân,   vì thế cho đến nay vẫn có người còn mơ hồ về việc phải chăng là trẻ tự kỷ đã “mắc phải” hay “nhiễm bệnh” trong quá trình nuôi dưỡng hay đây là một tình trạng bẩm sinh ?

Trong quá khứ, có thể đã có rất nhiều trẻ em và người lớn có các rối loạn kiểu tự kỷ trước khi tình trạng này đươc công nhận và đặt tên. Vì thế, trong các câu chuyện cổ xưa có nói đến những “tiên đồng” rất dễ thương đến từ trên trời ( quả thực là trẻ tự kỷ nhiều em trông rất dễ thương ) có những hành vi kỳ dị và ngôn ngữ khác thường.

Trong tác phẩm “ Giải thích điều bí ẩn của hiện tượng tự kỷ”, tác giả là bà Uta Frith đã nêu lên một số thí dụ về các huyền thoại và sự tích về những con người có các biểu hiện của tình trạng tự kỷ. Tháng Giêng năm 1801, bác sĩ  Jean Marc Gaspar Itard Viện trưởng viện Câm -Điếc Paris (Pháp) đã chăm sóc một cậu bé hoang dã, được đặt tên là Victor, có những biểu hiện tiêu biểu cho tình trạng tự kỷ mà ông Harlan Lane, một chuyên viên ngôn ngữ đã tập hợp các bài viết của Bs Itard và đưa vào tác phẩm “ Cậu bé hoang dã ở Aveyron”.  Câu chuyện của Bs Itardd rất hấp dẫn, nhưng điều quan trọng hơn là ông đã kể lại những biện pháp chăm sóc cho Victor, điều mà ông đã truyền lại cho các học trò của mình là ông Edouard Selguin và bà Marie Montessorri, người đã hình thành nên một phương pháp giáo dục đặc biệt có ảnh hưởng và thịnh hành cho đến ngày nay.

Như thế chúng ta thấy là tự kỷ đã có từ rất sớm trong lịch sử con người, nhưng chỉ được giới thiệu rải rác trong một số các nghiên cứu của các nhà khoa học như John Haslan (1890 ở Anh) Nhà tâm lý Lightner Witmer (1919 ở Mỹ) với những mô tả về hành vi tương tự nhau cho mãi đến khi Leo Kanner, một bác sĩ người Mỹ vào năm 1943, trong một bài báo với nhan đề “Autism Disturbance of Effective Contract”, hội chứng này được ông  mô tả một cách khoa học và rõ ràng. Ông đã chọn ra những đặc điểm quan trọng :

  • Thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt cảm xúc với người khác.
  • Có những thói quen hàng ngày mang tính rập khuôn
  • Ngôn ngữ hạn chế , thiếu từ, sai văn phạm hay không có ngôn ngữ.
  • Thích xoay chuyển vòng tròn các vật và thao tác khéo léo trong một số hành vi
  • Có kỹ năng cao về ý thức không gian, có trí nhớ vẹt và ghi nhớ theo kiểu “ chụp ảnh” ( chỉ nhớ hình ảnh , con số, các từ ngữ mà không hiểu nghĩa ) …
  • Bề ngoài có vẻ nhanh nhẹn thông minh, nhưng khi tiếp xúc là dễ dàng nhận thấy những hành vi và ngôn ngữ không phù hợp.

Ông cho rằng tự kỷ là một chứng hiếm gặp ở trẻ em, thường xuất hiện sau hai tuổi rưỡi và coi đó là đối tượng điều trị của y học. . Tiếp sau đó, Hans Asperger (1994), bác sĩ người Áo cũng mô tả các triệu chứng tương tự gọi là “Tâm bệnh tự kỷ” mà về sau gọi là hội chứng Asperger. . Cuối những năm 50 của thế kỷ XX, quan niệm về hội chứng này có sự thay đổi. Bender (1959) mô tả tự kỷ không phải là khiếm khuyết lúc sơ sinh của hệ thống thần kinh trung ương, mà là một phản ứng bảo vệ, một rối loạn mà cơ thể không có khả năng bảo vệ từ những lo lắng quá mức. Bernard Rimland (1964) cho rằng nguyên nhân của tự kỷ là do những thay đổi của cấu trúc lưới trong bán cầu não trái. Trong những năm từ 1960 – 1970, các nghiên cứu tập trung vào giải thích bản chất của tự kỷ, các lý thuyết tập trung vào những rối loạn sinh hóa hay chuyển hóa ở đối tượng này. Quan niệm được nhiều chuyên gia y tế chấp nhận trong một thời gian dài, xem đó là một bệnh lý thần kinh kèm theo tổn thương chức năng của não. .

– Theo từ điển bách khoa Columbia (1996): Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển có nguyên nhân từ những rối loạn thần kinh làm ảnh hưởng đến những chức năng cơ bản của não bộ. Tự kỷ được xác định bởi sự phát triển không bình thường về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tương tác xã hội và suy luận. Trẻ nam nhiều gấp 4 lần nữ giới Trẻ có thể phát triển bình thường đến 30 tháng tuổi sau đó gặp phải một số rối nhiễu trong phổ tự kỷ.

– Năm 1999, tại Hội nghị toàn quốc về tự kỷ ở Mỹ, các chuyên gia cho rằng nên xếp tự kỷ vào nhóm các rối loạn lan tỏa và đã thống nhất đưa ra định nghĩa cuối cùng về tự kỷ như sau: Tự kỷ là một dạng rối loạn trong nhóm rối loạn phát triển lan tỏa, ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự phát triển nhưng ảnh hưởng nhiều nhất đến các kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội

– Hiện nay, khái niệm tương đối đầy đủ và được sử dụng rộng rãi phổ biến nhất là khái niệm của tổ chức Y Tế Thế giới, đưa ra năm 2008, tự kỷ được định nghĩa một cách đầy đủ như sau: “Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển tồn tại suốt đời, thường được phát hiện trong 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do một loại rối loạn thần kinh ảnh hưởng đến chức năng của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra không biệt giới tính, giàu nghèo, chủng tộc hay địa vị xã hội. Tự kỷ được thể hiện qua các khiếm khuyết về tương tác xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, các hành vi, sở thích, hoạt động có tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại.”

Đến nay, tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ theo DSM-V (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về các chứng rối loạn tâm thần) được chính thức phát hành vào tháng 5/2013 với một số điểm thay đổi trong quan điểm về tự kỳ nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và thực tiễn. Điểm nổi bật trong phiên bản này bao gồm :

  • Thay tên gọi rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (PDD NOS) bằng tên gọi rối loạn phổ tự kỷ (ASD),
  • Tên gọi ASD được gọi chung cho 5 loại rối loạn như trong phiên bản trước.
  • Xếp nhóm rối loạn về giao tiếp và tương tác xã hội làm một, theo đó sẽ có 2 nhóm tiêu chí chẩn đoán thay vì 3 như trong DSM-IV.
  • Các tiêu chí chẩn đoán được thu gọn hơn so với các phiên bản trước kia.

Tiêu chí chẩn đoán tự kỷ theo DSM-V như sau:

Phải có đủ các tiêu chí sau :

  1. Khiếm khuyết trầm trọng về giao tiếp xã hội và tương tác xã hội trong nhiều hoàn cảnh, không phải o tình trạng chậm phát triển trí tuệ với 3 dấu hiệu sau:

– Khiếm khuyết về sự trao đổi cảm xúc – xã hội

– Khiếm khuyết về hành vi giao tiếp không lời được sử dụng trong tương tác xã hội

– Khiếm khuyết về khả năng phát triển và duy trì quan hệ phù hợp với mức độ phát triển (ngoại trừ người chăm sóc).

  1. Sự giới hạn, rập khuôn về hành vi, sở thích và hoạt động
  2. Những dấu hiệu trên phải được biểu hiện từ khi còn nhỏ (nhưng có thể không thể hiện hoàn toàn rõ nét cho tới khi vượt quá giới hạn).
  3. D. Những dấu hiệu phải cùng hạn chế và làm suy giảm chức năng hàng ngày.

DẤU HIỆU NHẬN BIẾT SỚM TỰ KỶ

Có thể nói, cho đến nay, hội chứng Tự Kỷ (Autistic Spectrum Disoder – ASD) vẫn còn là một trong những tình trạng rối nhiễu tâm lý phức tạp, khó xác định nguyên nhân chủ yếu và cũng khó xây dựng một kế hoạch trị liệu. có hiệu quả cao mang tính chuẩn mực chung, mà phải là những kế hoạch can thiệp cho từng cá nhân.

Trước đây, người ta thường nghiêng về những rối loạn trong quan hệ giao tiếp để cho rằng, sự thiếu quan tâm hay xa cách của người mẹ lúc ấu thơ là nguyên nhân chính. Từ đó, các biện pháp trị liệu thường đặt trọng tâm vào việc yêu cầu phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc nhiều hơn, và điều này cũng đồng nghĩa với việc “lên án” những sai lầm trong mối tương tác không lành mạnh với trẻ của phụ huynh, tạo thêm nhiều đau buồn không cần thiết. Nhưng đó chỉ là một yếu tố có thể làm tăng nặng thêm tình trạng Tự Kỷ đã có mầm mống ngay từ khi trẻ sinh ra, do đó cần chú trọng nhiều hơn đến các yếu tố sinh học.

Các yếu tố quan trọng cần phải lưu ý ngay từ nhỏ, đó là trẻ có những hoạt động giao tiếp không bình thường qua tiếng cười và tiếng khóc. Chúng ta biết rằng, trẻ sơ sinh giao tiếp với người mẹ và những người xung quanh thông qua :

Tiếng cười : Còn gọi là tiếng cười xã hội – trẻ chỉ cười để đáp lại một nụ cười trên khuôn mặt vui vẻ của mẹ hay người thân .

Tiếng khóc : Có nhiều nguyên nhân khiến trẻ khóc, và có nhiều loại tiếng khóc khác nhau, mà một người mẹ nhạy cảm, quan tâm đến con có thể nhận ra . Trẻ khóc vì đói, vì lạnh, vì nóng, vì đau, vì sợ và vì nhõng nhẽo.

Thế nhưng với trẻ có nguy cơ tự kỷ thì trẻ hầu như không cười, hay chi cười vu vơ và cũng không khóc do các nguyên nhân trên, trẻ thường kêu khóc một cách vô cớ, có thể ngưng khóc hoặc khóc dai dẳng dù đã đáp ứng mọi sự chăm sóc cho trẻ.

Như vậy, sự thiếu quan tâm chăm sóc không phải là nguyên nhân chính gây ra tình trạng tự kỷ, nhưng việc quan tâm chăm sóc con một cách hợp lý, có sự đầu tư bằng các kỹ năng cần thiết của bố mẹ trẻ, phối hợp một cách hài hòa việc giáo dục và trị liệu bằng tâm lý lại là một yêu cầu hết sức cần thiết  trong việc can thiệp cho trẻ tự kỷ.

Tự kỷ là một hiện tượng rối loạn tâm lý và   thần kinh rất phức tạp, mang tính cá biệt rất cao, không có một trẻ Tự kỷ nào có tình trạng và khả năng giống nhau, dù chúng đều có những dấu hiệu chung. Cho đến nay, việc xác định nguyên nhân cũng còn là một điều tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhưng nói chung thì đa số đều chấp nhận một số các nguyên nhân sau:

  • Sự phát triển kém hay không phát triển của một số tế bào thần kinh trong khu vực giao tiếp, tạo ra những tế bào non vì thế đã không có được những đáp ứng và khả năng tiếp nhận các kỹ năng giao tiếp mà cụ thể nhất là khả năng hình thành và phát triển ngôn ngữ.
  • Những rối loạn hay những sang chấn tâm lý (căng thẳng, buồn phiền, lo âu, giận dữ) trong lúc mang thai của người mẹ.
  • Sự thiếu quan tâm chăm sóc và môi tương giao không đầy đủ của bố mẹ trong quá trình nuôi dưỡng và phát triển ở những năm đầu cũng có khả năng làm tăng nặng tình trạng tự kỷ.

Trong đời thường, chúng ta căn cứ vào những biểu hiện khá rõ rệt mà bố mẹ có thể nhận ra để xác định tình trạng của trẻ:

Cách ăn nói:

  • Ngôn ngữ phát triển hoặc chậm hay không phát triển chút nào
  • Cách dùng từ không có ý nghĩa
  • Dùng cử chỉ thay vì lời nói để diễn đạt ý tưởng
  • Khó chăm chú được lâu

Phản Ứng Trong Cách Giao Tế:

  • Thích một mình hơn là chơi với trẻ khác
  • Không thích kết bạn
  • Ít tác động như cười hay nhìn thẳng mắt người khác

Giác Quan Bị Hư Hại:
Giác quan nhìn, nghe, sờ, ngửi  và nếm có thể rất nhạy cảm hay lại giảm sút. Đây là một yếu tố quan trọng mà nhiều người thường bỏ qua.

Cách Chơi:

  • Thiếu tính tự phát hay tưởng tượng
  • Không bắt chước được người khác
  • Không tự chế biến trò chơi

Thái Độ Cư Xử:

  • Có thể quá họat động hay quá thụ động
  • Dễ nổi cơn thịnh nộ mà không có lý do chính đáng.
  • Không biết tự ý bày trò chơi
  • Quá chú ý  vào một vật, ý tưởng, hành động hay một người nào.
  • Thiếu khả năng suy xét.
  • Có thể tỏ gây hấn với người hay chính mình.
  • Khó chấp nhận thay đổi trong lễ thói hằng ngày .

Tuy nhiên, những dấu hiệu này chỉ cho biết là trẻ có tình trạng tự kỷ hay không, nhưng ở mức độ nào, nhẹ hay nặng và nên có những biện pháp ra sao thì cần phải có những chẩn đoán đanh giá tỉ mỉ, kỹ lưỡng của các nhà chuyên môn để sau đó, có thể đưa ra những liệu pháp phù hợp với tình trạng của trẻ.

Do mỗi trẻ Tự kỷ lại có những khả năng tiếp thu và phát triển khác nhau, vì vậy những gì thích hợp cho trẻ này, chưa chắc đã thích hợp cho trẻ khác. Vì thế việc xây dựng một kế hoạch trị liệu phải dựa trên sự chẩn đoán kỹ càng và đưa ra một chương trình giáo dục cá nhân cho đứa trẻ đó mà thôi.

Vì thế, việc phát hiện sớm là điều cần thiết, nhưng điều đó không có nghĩa là can thiệp sớm thì trẻ sẽ hồi phục sớm, sẽ “ thoát tự kỷ” sớm . Vì tình trạng mà ta gọi là “hồi phục” hay “ bình phục” , “thoát khỏi” là những danh từ không chính xác, rất dễ gây ngộ nhận giữa một tình trạng “trở lại trạng thái bình thường” của những trẻ có các chứng bệnh về cơ thể hay các rối nhiễu tâm lý nơi các trẻ vốn là trẻ bình thường với một tình trạng “tiến đến trạng thái gần như bình thường” của nhiều trẻ tự kỷ đã được can thiệp bằng những biện pháo giáo dục hợp lý và bài bản.

HIÊU ĐÚNG VỀ TỰ KỶ

Trong cuốn The Bigger Boat, Linda Dorey Simpson, một phụ huynh có con gặp khó khăn về mặt học tập (learning disability), đã tâm sự rằng bà từng đọc đủ loại sách vở về khuyết tật viết bởi những chuyên gia có bằng cấp tiến sỹ, và cả những cuốn sách viết bởi … những người mẹ hổ (tiger moms).  Bà nói, có những cuốn sách bà đọc, bà hiểu rất tường tận, nhưng cũng có những cuốn sách chỉ làm phí thời gian của bà, thậm chí có những cuốn sách, theo sự nhận định cá nhân, thật nguy hiểm vô cùng đối với người đọc.  Qua sự nghiên cứu về khuyết tật trên mạng, bà đã tìm thấy nhiều thông tin ngộp thở như sau ( Đây là các tài liệu bằng tiếng Anh ):

  • Sách viết về giáo dục trẻ khuyết tật            7,143 cuốn.
  • Sách viết về khuyết tật học tập 2,717 cuốn.
  • Về tự kỷ trên mạng             2,660,000 bài.
  • Về chương trình giáo dục đặc biệt trên mạng 4,700,000 bài.

Theo bà Simpson, sự phong phú về những thông tin qua sách vở và qua mạng là điều đáng mừng cho phụ huynh, nhưng khó khăn nhất chính là … bà không biết những cuốn sách nào hoặc những bài viết nào trên mạng sẽ thật sự hữu ích cho phụ huynh có con em bị tự kỷ ! Điêu này càng đúng hơn so với những đất nước mà hệ thống truyền thông vẫn còn có những hạn chế về trình độ khoa học và tinh thần trách nhiệm.

Hiểu về tự kỷ như thế nào ?

Trước hết, thuật ngữ “ Tự kỷ” đã được dùng tại Việt Nam một cách không chính xác, bởi vì nếu hiểu tự kỷ là tình trạng tự bản thân trẻ không thể thiết lập được mối quan hệ với bên ngoài qua ngôn ngữ và hành vi giao tiếp thì phải gọi đó là tình trạng Tự Bế hay Tự Tỏa, (bế quan – tỏa cảng) trong khi tự kỷ chỉ có nghĩa là tự bản thân mình. Điều này đã khiến cho một số người nhầm lẫn tự kỷ với tình trạng tự kỷ ám thị (tự tạo ra những tác động cho chính mình, đây là cụm từ Hán Việt chính xác) và vì thế đến nay lại thêm một số cách dùng từ Tự kỷ ở giới trẻ để chỉ một thái độ co cụm, xa cách người khác, không thích giao du! giống như một dạng trầm cảm!

Danh từ Tự Kỷ được phổ biến khoảng năm 1987 tại Việt Nam, nhưng cho đến nay thì vẫn còn tình trạng không xác định đâu là biểu hiện quan trọng, đâu là những yếu tố phụ trong việc chẩn đoán xác định tình trạng và mức độ đã khiến một số các nhà chuyên môn và phụ huynh không biết cần phải làm gì để can thiệp cho con em mình.

Tự kỷ hay rối loạn phổ tự kỷ được dịch từ cụm từ Autism Spectrum Disorder và đây không phải là một rối loạn duy nhất, nó bao gồm các tình trạng sau:

  • Rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD)
  • Hội chứng Asperger ( Asperger’s Disorder – AD)
  • Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (Pervasive Development Disorder Not Otherwise Specified – PDD NOS )
  • Hội chứng Rett ( Rett’s Disorder )
  • Rối loạn nhân cách tuổi bé tí (Childhood Disintegrative Disorder – CDD)

Đây là nói  theo sự phân loại của DSM IV, nhưng qua đến sách DSM V thì gọi chung là Rối loạn phổ Tự kỷ ( ASD ) và chỉ có 2 mức độ là rối loạn tự kỷ chức năng cao và rối loạn tự kỷ chức năng thấp.

Hiện nay, người ta cho rằng tự kỷ là một rối loạn phát triển thần kinh, theo ông Alessandri, chuyên gia của ABCNews.com’s phụ trách chuyên mục tư vấn qua điện thoại về tự kỷ : “Các nhà khoa học và bác sỹ lâm sàng giờ đã hiểu rằng tự kỷ không chỉ một thực thể đơn lẻ, mà là nhiều hội chứng gây nên rối loạn phổ tự kỷ,” ông Alessandri nói.

Ngoài ra, có không ít người kể cả một số các nhà chuyên môn vẫn chưa phân biệt một cách rõ ràng giữa tình trạng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) với tình trạng hiếu động – kém chú ý (Còn gọi là tăng động giảm tập trung : Attention-Deficit-Hyperactivity Disorder- ADHD) và trẻ Chậm khôn (Mental Retardation) do ba tình trạng này có một số biểu hiện khá giống nhau, và có trẻ có cả hai các triệu chứng rối nhiễu này. Thế nhưng nếu xét kỹ về nguồn gốc rối nhiễu, và các biểu hiện quan trọng thì chuyên gia có kinh nghiệm sẽ nhìn ra những yếu tố khác biệt.

Vì tình trạng tự kỷ có rất nhiều dấu hiệu cảnh báo, đi từ những dấu hiệu nguy cơ ở mức độ nhẹ cho đến những biểu hiện lâm sàng rõ rệt, nên việc xác định một trẻ tự kỷ thực sự không phải là điều dễ dàng, từ đó càng làm cho rối nhiễu này thêm rối, dẫn đến những nhận định trái chiều nhau giữa cha và mẹ hay giữa cha mẹ và nhà chuyên môn. Có nhiều bậc cha mẹ khi thấy trẻ có hành vi đi nhón gót, không biết chỉ tay, chỉ nói được vài từ đã nhất quyết là con mình bị tự kỷ. Còn có nhiều người lại không chấp nhận những dấu hiệu đã khá rõ ràng của con, mà chỉ cho là nó chậm nói hay chậm phát triển thôi !

Nhiều người gọi đây là bệnh tự kỷ, điều này tuy không sai nhưng nó lại vô tình dẫn ta đến những suy nghĩ sai lệch, đó là quên yếu tố bẩm sinh mà chỉ cố tìm ra các nguyên nhân mắc phải sau khi sinh, đặc biệt là yếu tố cha mẹ ít chăm sóc con, ít trò chuyện với trẻ, thường xuyên để trẻ ở nhà với những người thiếu quan tâm về mặt giao tiếp, ít trò chuyện với trẻ như người giúp việc, ông bà … hay chính bản thân trẻ là người hướng nội, không thích giao tiếp…Trong khi đây chỉ là những yếu tố có thể làm cho tình trạng này trở nên khó khăn hơn.

Nhưng điều gây ngộ nhận nhất, khi gọi tự kỷ là một chứng bệnh, sẽ khiến nhiều người hiểu rằng, đã là bệnh ắt có thuốc chữa, cách chữa. Và khi đã chữa thì trẻ sẽ bình phục, trở lại cuộc sống bình thường. Vì thế, họ cứ mải miết đi tìm những loại thuốc quý hiếm, những phương pháp mới lạ với suy nghĩ: Tiền nào của đấy! càng đắt tiền lại càng công hiệu. Hơn nữa điều này còn dẫn đến những định hướng sai lầm trong các biện pháp can thiệp, đôi khi họ lại chọn giải pháp đi theo các kinh nghiệm của những bà mẹ đã nỗ lực chiến đấu vì con mình mà không hiểu rằng tình trạng tự kỷ của con mình không giống với con của những bà mẹ đó.

Tuy đã có rất nhiều biện pháp can thiệp được phổ biến, nhiều ngôi trường dạy trẻ Tự kỷ được mở ra nhưng các hiểu biết đúng đắn về tình trạng này cũng như chất lượng của các trường giáo dục chuyên biệt cho nhóm trẻ này vẫn bị thả nổi. Hơn thế nữa, ở nước ta hầu như chưa có một chính sách hỗ trợ nào cho các gia đình có trẻ tự kỷ, vì thế nhiều gia đình vẫn cứ phải “tự bơi” trong một biển mênh mông các thông tin một cách mơ hồ với các ảo tưởng thực hư về tình trạng của con mình.

Tự kỷ là chậm nói và có hành vi kỳ lạ ?

Như đã nói tự kỷ có những dấu hiệu nguy cơ và những biểu hiện lâm sàng từ nhẹ cho đến nặng, nhất là tình trạng chậm nói của trẻ. Khi thấy con chậm nói, thì hầu hết các bậc cha mẹ đều nghĩ đến tự kỷ, mà họ không biết rằng trẻ ADHD hay Chậm khôn cũng có tình trạng chậm nói, mặc dù đây không phải là dấu hiệu chính của 2 tình trạng này.

Ngoài ra, cũng có những trường hợp chậm nói do yếu tố bên ngoài, ta goi là chậm nói đơn thuần do việc trẻ không có điều kiện tiếp xúc bằng ngôn ngữ trong giai đoạn tập nói từ 1 – 3 tuổi. Tuy nhiên điều làm cho các bậc cha mẹ lo ngại hơn cả, là những hành vi kỳ dị của trẻ mà trong các dấu hiệu chỉ Tự kỷ, các hành vi kỳ dị này được xem là những chứng cớ chắc chắn nhất. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong 5 yếu tố cần phải có là:

1/ Sống khép kín, không biết cách chơi với người khác

2/ Dễ nổi nóng( vì sợ, giận, buồn..)

3/ Ngôn ngữ thiếu vắng, chậm

4/ Lặp đi lặp lại trong hành vi và ngôn ngữ

5/ Hành vi lạ kỳ như nhún nhảy, xoay tròn, đưa tay ve vẩy trước mặt

 Nếu cần đánh giá một cách kỹ hơn, chúng ta nên xét đến các yếu tố :

  1. Không biết nhìn theo hướng chỉ tay của người lớn vào một vật, hoặc chỉ nhìn vào bàn tay của người chỉ.
  2. Không trả lời, không có phản ứng khi có người gọi tên mình.
  3. Không biết bắt chước hành vi, nhưng có thể nhại lời
  4. Chậm phát âm: Không biết nói bi bô, líu lo
  5. Phát âm những tiếng kỳ lạ, không đúng với tình huống.

6 .Có những sở thích kỳ lạ, thích các món đồ bình thường: Bao giấy, đồng xu, sợi dây…

  1. Có một số hành vi lập đi lập lại ( thích sắp xếp các vật dụng theo một thứ tự nhất định)
  2. Không có khả năng chơi đùa với các bạn cùng trang lứa
  3. Thường xuyên kích động, lăng xăng khó ở yên một chỗ.
  4. Thường thức rất khuya, khó ngủ, hay ngủ không yên giấc
  5. Không bộc lộ những cảm xúc vui, buồn một các rõ ràng
  6. Rất ghét sự tiếp xúc, đụng chạm của người khác đến người của mình hoặc ngược lại, quá gắn bó, đeo bám, thích vuốt ve, sờ chạm.
  7. Hay có những cơn giận dữ, kích động quá mức không kềm chế được.
  8. Thờ ơ trước mọi tình huống, ít bộc lộ cảm xúc.
  9. Thiếu ý thức về thời gian.

Đây là những dấu hiệu dành cho trẻ trên 3 tuổi và phải có ít nhất 2/3 các dấu hiệu này kéo dài trong 6 tháng. Còn với trẻ dưới 3 tuổi thì yếu tố quan trọng là không có khả năng giao tiếp bằng mắt, có cái nhìn thờ ơ trước mọi người, không biết chơi đồ chơi và chậm phát âm. Như vậy, có thể nói để chẩn đoán đánh giá một trẻ tự kỷ, không thể là một sự đánh giá duy nhất trong một thời gian ngắn, mà cần có những biện pháp kết hợp và kinh nghiệm lâm sàng của chuyên viên, cũng như sự cộng tác tích cực trong việc cung cấp các thông tin một cách khách quan và đầy đủ hay sự quan sát của gia đình.

CVTL. LÊ KHANH

Phó chủ tịch Hội đồng chuyên môn

Cty Giáo dục KidsTime – Hà Nội

Lê Khanh
Lê Khanh
Chuyên gia tâm lý