Các trang web hữu ích
15/05/2011
Chẩn đoán hội chứng Tăng động Giảm chú ý
16/05/2011
Các trang web hữu ích
15/05/2011
Chẩn đoán hội chứng Tăng động Giảm chú ý
16/05/2011

Một trong những trở ngại tâm lý về mặt giao tiếp thường thấy nhất, đó là tình trạng chậm nói. Như chúng ta đã biết, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình hình thành ngay từ khi mới sinh ra…

 

Với một trẻ bình thường không có những tổn thương về thính lực và trí não thì sự phát triển về ngôn ngữ có thể tạm chia ra các thời điểm như sau:

 

THỜI ĐIỂM

LỜI NÓI – NGÔN NGỮ

0 – 3 tháng

– Phát âm theo bản năng những thanh âm vô nghĩa

– Phát triển các vận động để hình thành ngôn ngữ cơ thể diễn tả các cảm giác, nhu cầu : Đói, lạnh, sợ, ngạc nhiên, lo lắng , hài lòng, vui vẻ…

6 tháng tuổi

– Bắt đầu bập bẹ các âm môi như pa,pa, mama….

– Tập nhắc lại các âm mà trẻ đã nghe được.

– Có khả năng diễn tả một số tình cảm qua nét mặt.

12 tháng tuổi

– Nói được những từ đơn, liên quan đến những người xung quanh : bố, mẹ,bà.

– Biết diễn tả một số nhu cầu qua các từ đơn: măm măm, ị, bô, bánh, cơm…

– Có khả năng tạo ra những quan hệ giao tiếp qua cử chỉ

– Biết chỉ các đồ vật mà trẻ muốn

18 tháng tuổi

– Có vốn từ khoảng 10 – 20 từ nhưng có khả năng hiểu gấp 10 lần khả năng nói ( cho thấy yếu tố quan trọng của môi trường xung quanh)

– Nói được những từ có liên quan đến hoạt động và nhu cầu cơ thể

– Có thể nói được những từ đôi : măm chuối, bố bế, mẹ bế, đi về …

– Có thể nhắc lại các câu  đơn giản: Chào bác ạ, hoan hô bé…

– Nhận biết sơ đồ cơ thể ( biết tên và chỉ đúng một số bộ phận)

2 tuổi

– Có một số vốn từ trung bình khoảng 200 từ mà 2/3 là danh từ

– Biết nói những câu ngắn : Bố đi làm, mẹ đi chợ, rửa chân tay

– Có ý thức tự chủ , tự biết tên mình, nhưng chưa phân biệt được cái gì của mình, cái gì của người khác ( tính duy kỷ: Cái gì nắm trong tay là của mình)

– thường dùng tên ( tên khai sinh hay tên gọi ở nhà ) để xưng hô, chưa biết xưng con hay em, cháu với người xung quanh.

 

3 tuổi

– Nói được những câu ngắn, có chủ từ , động từ .

– Vốn từ phát triển nhanh chóng ( nếu có được môi trường giao tiếp thích hợp) Nói được khoảng 200 từ, hiểu được 1000 từ, biết hát các bài hát ngắn, đọc các câu thơ, câu vè có vần điệu . Kể lại các câu chuyện ngắn dù chưa hiểu nội dung.

4 – 5 tuổi

Vốn từ phát triển khá hoàn thiện, làm chủ đưọc các câu nói, có thể noí chuyện với người lớn, biết xưng hô con, cháu, trò .

Biết dùng các đại danh từ : Chị ấy, chúng nó, của chị, của nó…

Biết sử dụng ngôn ngữ về thời gian, không gian, biết hỏi : ở đâu, tại sao, khi nào ? – Biết phân biệt các khái niệm cao thấp, nhỏ – to, mầu sắc, sáng tối…

6-7 tuổi

Ngôn ngữ đã hoàn thiện .

Như vậy, với một trẻ chậm nói, thường thì cha mẹ dễ dàng phát hiện ra trong khoảng 1- 3 tuổi với những hạn chế về phát âm và vốn từ, và khả năng cải thiện sẽ kéo dài cho đến năm trẻ được 6 – 7 tuổi. Quá thời điểm này, khả năng phát triển ngôn ngữ sẽ hết sức khó khăn.

 

Chậm nói là một dấu hiệu xuất hiện trong nhiều rối nhiễu tâm lý khác nhau, từ tình trạng chậm khôn cho đến một trẻ có hội chứng Tự kỷ đều có tình trạng chậm nói, nhưng sự rối loạn ngôn ngữ ở trẻ tự kỷ thường đa đạng và phức tạp hơn. Trẻ tự kỷ có thể nói rất rõ, nhưng lại là những từ vô nghĩa hay không đúng ngữ cảnh, như khi ngó ra ngoài đường nhìn những chiếc xe qua lại, trẻ lại thốt lên: Cái ly đâu rồi?

 

Còn một trẻ chậm nói do tình trạng chậm khôn là do trẻ không đủ vốn từ để diễn tả, chúng ta sẽ có cảm nhận là trẻ rất muốn nói nhưng lại không biết nói như thế nào, hoặc chỉ có thể nói được từng từ một.

 

Vì vậy, nếu chỉ dựa trên một biểu hiện là chậm nói để kết luận đó là một trẻ Tự Kỷ hay đó là trẻ Chậm khôn là một điều vội vã, cần phải có sự quan sát, chẩn đoán đầy đủ và kỹ lưỡng hơn.


CHĂM SÓC – HƯỚNG DẪN TRẺ CHẬM NÓI

 

Việc chăm sóc cho trẻ chậm nói là một tiến trình lâu dài, cần phải có một kế hoạch cụ thể, qua đó cha mẹ phải tìm ra được những gì mà trẻ có thể làm, ta xem trẻ đang cố gắng giao tiếp bằng cách nào: Dùng điệu bộ, từ hay âm. Khi biết trẻ có ý định giao tiếp ta hãy giúp trẻ có khả năng giao tiếp với từng loại thông tin khác nhau. Khi trẻ chỉ có phản ứng, ta vẫn chấp nhận phản ứng của trẻ nhưng cố gắng giúp trẻ chủ động hơn trong sự giao tiếp. Trong trường hợp trẻ tỏ ra không biết hay không muốn giao tiếp, ta cần có những tác động kích thích (ôm ấp, vỗ về, hỏi han, cười, nhìn trẻ) Và khi trẻ đã có phản ứng, hãy khích lệ trẻ để trẻ có thể nói (bằng lời hay bằng dấu hiệu) các nhu cầu của mình.

 

Trẻ có thể có những phản ứng đồng ý hay không đồng ý, đôi khi chúng ta cần có những tác động để trẻ phản đối (lấy đồ chơi, bắt trẻ ngưng làm điều mà trẻ thích) nhưng là để quan sát cách biểu lộ bằng hành vi hay ngôn ngữ để phản đối của trẻ chứ không nên kéo dài, hay cố gắng trêu chọc dể trẻ phải phản ứng mạnh hơn.

 

Trong cuộc sống, trẻ sẽ có sự quan sát và ghi nhận những hoạt động bằng hình ảnh và ngôn ngữ xảy ra chung quanh mình. Vì vậy bố mẹ cần tích cực trong việc :

 

–          Chào hỏi nhau, chào hỏi bạn bè, họ hàng, con cái … để trẻ học và hiểu ý nghĩa các lời chào hỏi này. Và thường xuyên tác động khi gặp trẻ bằng những câu chào hỏi.

 

–          Mô tả, nói ra những nhu cầu của trẻ, những yêu cầu và hành động của bố mẹ, của những người xung quanh, giúp trẻ tăng cường vốn từ, sự hiểu biết.

 

–          Khi chơi với trẻ, hãy thường xuyên đặt câu hỏi và tự trả lời (vì trẻ sẽ không thể trả lời ngay, hay chỉ có thể phản ứng bằng hành động: gật đầu, lắc đầu, đẩy ra, đưa tay tóm lấy… )

 

–          Thỉnh thoảng có thể dấu một món đồ đi và đặt ra câu hỏi : Con búp bê đâu rồi ?

 

Trong việc dạy trẻ, một điều rất quan trọng là cần kết hợp giữa SỰ VUI THÍCH và YÊU CẦU. Nếu muốn trẻ học tốt, trẻ phải có sự vui thích trong khi học, vì vậy việc hướng dẫn từ ngữ nên thông qua các trò chơi là chính, phải biến đổi cả những hoạt động bình thường như ăn uống…cũng có thể trở thành những trò chơi để trẻ luôn luôn đáp ứng trong sự tự nguyện vì vui thích và mong muốn chứ không phải đáp ứng vì ép buộc hay miễn cưỡng trong sự lo lắng.

 

Như vậy, việc lập một kế hoạch tập nói cho trẻ phải dựa trên các yếu tố sau:

 

–      Nói với trẻ, diễn giải ra bằng ngôn ngữ nói càng nhiều càng tốt.

 

–          Nói và giải thích, hỏi và trả lời một cách thật cụ thể.

 

–          Tạo ra mọi cơ hội trong mọi thời điểm và ở mọi nơi.

 

–          Chú trọng yếu tố vui thích trong mọi yêu cầu.

 

Phát triển sự quan hệ với mọi người là một yêu cầu thiết để giúp trẻ học cách giao tiếp. Từ nhỏ, trẻ chậm phát triển ngôn ngữ thường có sự hạn chế trong việc giao tiếp với mọi người, đặc biệt là với những người thân. Vì vậy trẻ cần được tăng cường các hoạt động tiếp xúc gần gũi như trong các trò chơi, cười đùa, bồng ẵm, gây tiếng động và tiếp xúc qua ánh mắt, đặc biệt là đối với bố mẹ. Bố mẹ có thể tạo ra mối quan hệ thông qua một hoạt động cùng nhau (ăn chung, chơi chung, làm một việc gì đó trong nhà chung với nhau) hay thông qua một vật (cùng trò chuyện qua một câu chuyện kể với những con búp bê, con rối – cùng nhìn về một vật, một hình ảnh nào đó) Cùng xem tranh với trẻ, chỉ cho trẻ các hình ảnh và nhân vật với lời thuyết minh ngắn gọn rõ ràng, cụ thể và đơn giản.

 

Ngay cả trong các hoạt động bình thường, khi thấy trẻ có vẻ muốn hỏi (đưa mắt nhìn) ta nên nói cho trẻ biết công việc mình đang làm: Mẹ đang nấu cơm, đang soạn bài, đang xếp quần áo, đang đánh vi tính … Khi trao đổi, cha mẹ nên nói một cách chậm rãi, kiên nhẫn chờ trẻ trả lời dù rất ngắn với thái độ vui vẻ, khích lệ. Bố mẹ nên tìm ra các hoạt động đơn giản trong khi chơi với trẻ để dạy như lần lượt tung quả bóng lên – xây các tháp gỗ bằng cách lần lượt đặt các mẩu gỗ lên – lần lượt vỗ tay …

 

Bắt chước là một kỹ năng thiết yếu trong việc giao tiếp, trẻ có thể bắt chước hành động (ngôn ngữ không lời) và tiếng nói. Với trẻ bắt chước bằng hành động là dễ nhất, và thông qua những hành động mà trẻ có khả năng bắt chước, ta có thể đánh giá khả năng tiếp thu của trẻ. Ta có thể kích thích hay tập cho trẻ bắt chước bằng cách bắt chước chính những động tác của trẻ –

 

Ví dụ: Trẻ dơ tay sờ mũi, ta cũng sờ mũi trẻ sẽ bắt chước lặp lại hành vi trên, điều này sẽ tạo ra sự chú ý cho trẻ, từ đó chuyển sang hành động khác như sờ tai, trẻ sẽ làm theo…

 

Với một số trẻ tỏ ra thờ ơ trong việc bắt chước, ta hãy kiên nhẫn tập cho trẻ lập lại những động tác trên bằng cách nắm lấy tay trẻ sờ vào mũi, vào tai của ta – Sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai cơ thể là điều kích thích cảm giác nơi trẻ . Khi trẻ đã bắt đầu có hứng thú trong việc bắt chước các hành động, ta sẽ chuyển dần sang sự bắt chước các âm thanh. Cũng bắt đầu với âm thanh mà trẻ tự phát ra hay tự bắt chước. Việc khen thưởng và động viên bằng hành động (vuốt ve, xoa đầu, ôm vào lòng, cười hài lòng) hay bằng lời nói ( khen ngợi) là điều quan trọng, cần tiến hành thường xuyên trong việc tập cho trẻ các hành vi bắt chước.

 

Thường trẻ thích bắt chước tiếng súc vật (gà gáy, chó sủa …) tiếng xe cộ, máy bay … trước khi nói được. Hoạt động này, nếu có điều kiện nên diễn ra với sự tham gia của các trẻ khác hay với các người thân trong gia đình – Bố me, anh chị cùng tham gia, cùng phát âm (trong những trò chơi) để trẻ được kích thích, khích lệ phát ra lại các âm thanh đã nghe được.

 

Ta hãy hình dung một người nước ngoài đến Việt Nam, hay khi đi ra nước ngoài mà không biết một ngoại ngữ nào, thì điều đó cũng giống như một đứa trẻ, lớn lên giữa một biển âm thanh, nghe được tất cả nhưng không hiểu đó là gì! Vì thế trẻ phải được tạo điều kiện để được lắng nghe, và được giải thích với những hình ảnh cụ thể, sinh động.

 

Khi ta nghe từ “mèo” ta có ngay hình ảnh một con thú nhỏ, có bộ lông mịn, hai tai nhọn, đôi mắt long lanh, cái đuôi ngoe nguẩy, và tiếng kêu meo meo rất đặc trưng. Đó chính là những ảnh có trong tâm trí của ta, do đã được ghi nhận qua nhiều lần tiếp xúc với con mèo thực. Tuy nhiên, cũng có những con thú đã tuyệt chủng như khổng tượng, khủng long… nhưng khi nhắc đến các con thú này, ta vẫn có được những hình ảnh của chúng, do đã được xem qua trên phim ảnh, trong các câu chuyện có hình ảnh minh họa … Vì vậy, đó cũng là một phương tiện giúp cho trẻ hình thành được những hình ảnh trong tâm trí, mà ta gọi đó là những hình ảnh trí tuệ (mental pictures). Tuy nhiên, để làm được việc ghi nhận những hình ảnh, gắn liền nó với một danh từ nào đó, thì khả năng trí tuệ của trẻ phải phát triển đến một trình độ nhất định, và điều đó chỉ có thể có được qua tập luyện.

 

Ta nên biết rằng trẻ nhỏ (dưới 1 tuổi) ít khi nhìn theo một vật đang rời xa khỏi tầm mắt của chúng, vì với trẻ, hình ảnh đó không còn tồn tại nữa. Để tập cho trẻ khái niệm tồn tại, thì một trò chơi đơn giản mà rất nhiều bố mẹ đã từng chơi, đó là trò “ú òa” hay trốn tìm. Bố mẹ sẽ dùng tay hay cái quạt giấy, bìa sách, cái gối, cái mền.. che mặt mình lại, dấu người mình đi hay che một vật nào đó, rồi mở ra cho trẻ thấy, rồi lại che đi … điều này được lập đi lập lại, và sẽ tạo cho trẻ một nhận thức về sự tồn tại.
Từ khả năng này, cần phải tập cho trẻ phân biệt sự khác nhau giữa các vật, bằng cách cho trẻ chơi (tiếp xúc) với các vật, không chỉ đơn thuần là những món đồ chơi, mà có thể đó là những vật thực (trái banh, cái muỗng, cái ly, cái bàn chải …. ) trẻ có thể cầm, nắm ,đập, xé, nhai thử … Từ đó trẻ sẽ khám phá ra sự khác biệt về cảm giác , trọng lượng, âm thanh, mầu sắc … Và khi trẻ đang khám phá, thì ta có thể gọi tên các vật đó, nhiều lần trẻ sẽ có khái niệm, biết được món đồ đó, và có thể nói lại vào một thời điểm thích hợp.

 

Cv.Tl Lê Khanh

 

 

 

Lê Khanh
Lê Khanh
Chuyên gia tâm lý