Bại não là một tình trạng khuyết tật của trẻ em. Đây được xem là một nhóm tình trạng bệnh lý mạn tính gây ảnh hưởng đến sự kiểm soát các vận động cũng như tư thế tay chân.
Do một phần nào đó của bộ não bị tổn thương nên trẻ bệnh không thể cử động các cơ được vùng não đó điều khiển một cách bình thường được. Các triệu chứng của bại não có thể nhẹ nhàng hoặc rất nặng nề ở các trẻ khác nhau tùy theo tổn thương não nhưng triệu chứng không nặng lên khi trẻ lớn hơn. Nói một cách khác, bại não là một bệnh tĩnh, nghĩa là các tổn thương đã định hình và không tiến triển xấu hơn nữa. Qua đó, có thể phân biệt bại não với các tình trạng tổn thương thần kinhkhác có tổn thương não hoạt động và do đó triệu chứng rối loạn tâm thần vận động sẽ càng ngày càng nặng hơn. Nếu được điều trị, phần lớn trẻ bị bại não có những biến chuyến khả quan.
Đa số trẻ bị bại não thường có kèm theo các tình trạng rối loạn khác như chậm khôn,rối loạn khả năng học tập, động kinh và có các vấn đề về nghe nhìn và chậm nói.
NGUYÊN NHÂN
Trong khoảng 70% trường hợp, bại não có thể là do những bất thường xảy ra trước sinh làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của não. Theo báo cáo năm 2003 của Hội Sản và Phụ khoa Hoa Kỳ (American College of Obstetricians and Gynecologists – ACOG) và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics – AAP) thì thiếu ôxy trong quá trình sinh đẻ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong các trường hợp bại não. Mặc dù nhiều trường hợp người ta chưa thể xác định được căn nguyên nhưng các nguyên nhân được biết của bại não bao gồm:
Các nhiễm trùng ở phụ nữ có thai như rubella (sởi Đức), cytomegalovirus và toxoplasmosis, có thể gây tổn thương não của bào thai và gây bại não sau này. Các nhiễm trùng khác như nhiễm trùng ối, nhiễm trùng hệ tiết niệu – sinh dục của người mẹ cũng có thể gây nên sinh non, một nguy cơ khác của bại não.
Khi chức năng của nhau thai bị giảm sút hoặc bị bóc tách khỏi thành tử cung trước khi sinh hoặc do chảy máu do sai lệch vị trí có thể làm giảm lượng ôxy cung cấp cho thai nhi.
Sinh non là trẻ sinh ra trước 37 tuần thai tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng trước khi có thai. Những trẻ sinh non đặc biệt trước 32 tuần và nhất là trước 28 tuần thai có nguy cơ bại não rất cao. Một nghiên cứu cho thấy những trẻ sinh non có cân nặng lúc sinh thấp hơn 1kg 500 có nguy cơ bại não cao gấp 30 lần so với trẻ sinh đủ tháng , vì trẻ sinh non có nguy cơ rất cao bị xuất huyết não gây tổn thương các tổ chức mong manh đang phát triển của não hoặc gây nên chứngnhuyễn hóa chất trắng quanh não thất.
Theo nghiên cứu của Hội Sản – Phụ khoa Hoa Kỳ và Viện Hàn lâm Nhi Khoa Hoa Kỳ thì ngạt chiếm 10% nguyên nhân gây ra tình trạng bại não ở trẻ sơ sinh.
Bất đồng nhóm máu Rh là sự bất tương hợp nhóm máu giữa mẹ và bào thai gây nên vàng da trầm trọng và tổn thương não dẫn đến bại não. Bệnh này thường gặp ở người da trắng còn ở Việt Nam có thể gặp bất đồng nhóm máu ABO, giữa mẹ và thai nhi. Một bệnh khác rất nặng nề mặc dù biện pháp phòng ngừa cực kỳ đơn giản là xuất huyết não do thiếu Vitamin K ở trẻ sơ sinh và nhũ nhi cũng gây nên bại não. Các bệnh rối loạn chức năng đông máu khác cũng có thể là nguyên nhân của bại não vì làm tăng nguy cơ chảy máu trong não.
Vàng da trẻ sơ sinh là do sự tích tụ trong máu một loại sắc tố có tên Billirubin do tốc độ phá hủy hồng cầu cao và chức năng gan chưa trưởng thành ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Trong trường hợp nặng, sắc tố này có thể vượt qua hàng rào mạch máu não và lắng đọng chủ yếu ở các nhân nền của não (do đó có tên là vàng da nhân) và làm tổn thương các cấu trúc này đưa đến thể bại não kèm múa vờn.
Các trẻ có bất thường cấu trúc hệ thần kinh, nhiều bệnh di truyền khác cũng làm tăng nguy cơ bại não.
Trẻ mắc các chứng bệnh gây tổn thương thần kinh trong hai năm đầu tiên của đời sống ví dụ như viêm màng não mủ, viêm não, chấn thương sọ não…
Bại não thường ít khi được chẩn đoán sớm trước 2 tuổi. Với lứa tuổi trên 3 thì tần suất bại não vào khoảng 2-3 trường hợp/1000 trẻ. Đây là một tỷ lệ khá cao đối với một bệnh mạn tính như thế này. Ngay cả ở Mỹ thì cũng có khoảng trên nửa triệu bệnh nhân bại não.
CÁC HÌNH THỨC BẠI NÃO
Bại não được chia thành 3 thể lâm sàng chính. Tuy nhiên trên một trẻ bại não có thể có nhiều hơn một thể bệnh kết hợp với nhau.
CHẨN ĐOÁN:
Nếu trong thai kỳ, đặc biệt vào những tháng đầu tiên, mẹ bị các bệnh như cúm, sởi Đức, hoặc dùng một số thuốc có khả năng gây quái thai hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của ống thần kinh thì cần theo dõi đặc biệt. Những trẻ có tiền sử sinh non, ngạt chu sinh cũng là những đối tượng có nguy cơ cao. Các bậc cha mẹ có thể theo dõi sự phát triển của con mình như lật, ngồi, bò, đi nếu có nghi ngờ bất thường thì cần có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa nhi ngay.
Khám lâm sàng
Mặc dù nguyên nhân bại não là do những sự kiện xảy ra trong thai kỳ và trong hai năm đầu đời sống, việc đánh giá và chẩn đoán bại não trước hai tuổi rất khó khăn. Khám trương lực cơ, cơ lực đòi hỏi phải có chuyên môn sâu về thần kinh nhi khoa. Trương lực cơ có thể tăng hoặc giảm. Các phản xạ nguyên thủy thường mất đi sau 6 tháng nhưng ở trẻ bại não thì các phản xạ này tồn tại lâu hơn. Trẻ nhỏ trước 12 tháng thường không biểu hiện rõ thuận tay nào. Nhưng đối với trẻ bị bại não (nhất là thể liệt cứng nửa người) thì khuynh hướng thuận tay xuất hiện sớm (do bên liệt vận động khó, trẻ phải vận động bên lành). Đánh giá sự phát triển Tâm thần vận động thường có thể dựa vào các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn Amiel – Tison hoặc thang đánh giá Denver.
Xét nghiệm hỗ trợ
Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh như siêu âm não qua thóp, chụp cắt lớp vi tính (CT: Computerised Tomography) đặc biệt là chụp cộng hưởng từ (MRI: Magnetic Resonnance Imaging) cho biết những thông tin giá trị về tổn thương não. Các xét nghiệm hóa sinh hay di truyền tùy theo hướng chẩn đoán trên lâm sàng. Đo điện não đồ (EEG: ElectroEncephaloGram) cũng là một xét nghiệm cơ bản không thể thiếu trong chẩn đoán bại não cũng như các bệnh của hệ thần kinh trung ương khác.
ĐIỀU TRỊ
Điều trị bại não cần có sự phối hợp của nhiều chuyên ngành khác nhau cùng phối hợp với trẻ và gia đình nhằm vạch ra được một kế hoạch cụ thể thích hợp cho từng cá nhân. Điều trị bại não nhằm giúp trẻ đạt được khả năng trí tuệ cũng như vận động tối đa có thể có chứ không thể lấy lại được những khả năng đã mất để thành một đứa trẻ hoàn toàn bình thường. Các chuyên khoa liên quan bao gồm nhi khoa, phục hồi chức năng, phẫu thuật chỉnh hình, mắt, tâm lý lâm sàng, chỉnh âm, dạy nghề… Nếu điều trị được thực hiện sớm và có sự phối hợp chặt chẽ của các chuyên ngành, đặc biệt là sự tham gia của gia đình thì kết quả rất khả quan.
PHÒNG NGỪA
Hiện nay y học vẫn chưa hiểu hết các nguyên nhân gây bại não do đó việc phòng ngừa không đạt hiệu quả như mong muốn. Thông thường, người ta có thể áp dụng các biện pháp sau:
Nâng cao chất lượng chăm sóc phụ nữ trong tuổi sinh đẻ và phụ nữ có thai nhằm giảm thiểu những biến chứng của thai kỳ. Phân tuyến để điều trị sản khoa hợp lý nhằm giảm thiểu các biến chứng do sinh đẻ như ngạt, chấn thương… Có trung tâm chăm sóc sơ sinh phù hợp.
Tiêm ngừa đề phòng các bệnh như viêm màng não mủ, viêm não
Phòng chống tai nạn giao thông cũng như các tai nạn khác (ngạt nước…)
Phòng ngừa thứ phát là phát hiện sớm và điều trị trẻ bị bại não nhằm hạn chế tật nguyền.
CHĂM SÓC TRẺ BẠI NÃO
Trẻ bại não thường có các dấu hiệu sau:
– Khi đẻ ra không khóc ngay hoặc khóc yếu, tím tái.
– Sau khi sinh thường mềm nhẽo, không vận động
– Phát triển chậm hơn trẻ khác (chậm biết giữ đầu cổ, biết ngồi và đi).
– Không biết cầm nắm bằng hai tay hoặc chỉ cầm bằng một tay.
– Mút, bú khó khăn, hay sặc sữa.
– Khó bế ẵm, tắm rửa, thay quần áo cho trẻ vì người trẻ cứng đờ.
– Đầu rũ xuống, không ngẩng lên được.
– Nghe khó, nhìn khó.
– Khó khăn trong giao tiếp.
– Có thể bị động kinh (cơn co giật, bất tỉnh, sùi bọt mép).
– Thay đổi tính cách bất thường (đột nhiên khóc, rồi lại cười, sợ hãi, co giật, tức giận).
– Khả năng thăng bằng kém.
Nếu chứng bại não được phát hiện sớm và phục hồi toàn diện, liên tục và lâu dài, trẻ sẽ có cơ hội tự lập, hòa nhập cuộc sống đời thường. Sau đây là một số hướng dẫn cụ thể:
1. Cách bế ẵm trẻ
– Nếu trẻ thường nằm với tư thế 2 tay co, 2 chân duỗi thì bế sao cho 2 tay duỗi thẳng, 2 gối và háng gập.
– Nếu trẻ có khả năng kiểm soát tốt hơn thì có thể bế ở tư thế ít cần trợ giúp .
2. Nằm và ngủ
– Nếu trẻ nằm hai chân duỗi chéo nhau thì có thể dùng khố đóng để tách ra hoặc cố định 2 chân.
– Nếu trẻ thường ưỡn người ra sau, nên đặt nằm nghiêng, nằm võng hoặc trên một quả cầu hay ống trụ tròn ( bằng nhựa )
– Nếu trẻ không ngẩng đầu hoặc nhấc tay ra được: Đặt trẻ ở tư thế chống 2 tay.
3. Lẫy và xoay người
– Nếu trẻ bị co cứng, phải làm giảm cứng bằng cách đẩy chân trẻ ra sau và ra trước; sau đó, giúp trẻ tập xoay người và lẫy. Lưu ý: Tìm trò chơi sao cho trẻ muốn xoay người và tự xoay người.
4. Ngồi
– Nếu 2 chân trẻ bắt chéo vào nhau và xoay vào trong, khớp vai sệ xuống, 2 tay xoay vào trong: Đặt trẻ ngồi tách 2 chân ra, nâng 2 vai lên, xoay chân tay ra ngoài.
– Nếu trẻ khó khăn khi ngồi: Giữ 2 chân cho trẻ .
– Trẻ có khả năng thăng bằng kém, hai chân thường bắt ngược ra sau (hình chữ W) để khỏi ngã: Không nên khuyến khích trẻ ngồi kiểu hình chữ W do có thể gây biến dạng khớp háng, gối.
– Nếu trẻ luôn dạng hai chân, mông ưỡn ra sau, khớp vai đưa ra sau, đầu tiên cần đặt trẻ ngồi sao cho thân ở tư thế gập về phía trước, 2 chân chụm vào nhau rồi đưa 2 vai ra trước và xoay vào trong. Sau đó, cùng chơi với trẻ trên bàn; ngồi đối diện với trẻ để trẻ phải với tay ra phía trước lấy đồ chơi. Chú ý đảm bảo để hai bàn chân đặt trên mặt phẳng.
Ngoài ra, cần tập cho trẻ đứng thăng bằng, di chuyển. Cố gắng tìm mọi cách để trẻ có thể sử dụng hai tay khi vui chơi, hoạt động ở các tư thế; khuyến khích việc sờ, cảm nhận và giữ các đồ vật có hình dạng, kích thước, độ nhẵn, độ cứng khác nhau.
Để giảm bớt nguy cơ bại não, cần thực hiện tốt những điều sau đây:
– Dinh dưỡng tốt cho bà mẹ trước và trong khi thai nghén.
– Tránh có thai trước tuổi trưởng thành.
– Tránh dùng các loại thuốc không cần thiết khi mang thai.
– Khám thai định kỳ đầy đủ.
– Tránh các sang chấn sản khoa trong khi sinh.
– Nuôi con bằng sữa mẹ.
– Tiêm chủng đầy đủ cho trẻ.
– Tránh để trẻ bị sốt cao, co giật.
– Tránh để mất nước khi trẻ bị tiêu chảy.
Cv.TL LÊ KHANH
Các nguồn:
– Bách khoa toàn thư Wikipedia
– Tổ chức United Cerebral Palsy, March of Dimes, Viện Nghiên Cứu Quốc Gia về Những Rối Loạn Hệ Thần Kinh và Đột Quỵ (National Institute of Neurological Disorders and Stroke).