Nghĩ gì – làm gì khi con thuộc diện đặc biệt
19/12/2011
Trái Bạch Quả
19/12/2011
Nghĩ gì – làm gì khi con thuộc diện đặc biệt
19/12/2011
Trái Bạch Quả
19/12/2011

Trước hết xin được nói rằng từ 3 đến 6 tuổi là thời kỳ hình thành và phát triển nhân cách rất mạnh ở trẻ em. Các nhân tố giúp và tác động vào việc phát triển của trẻ cũng rất nhiều.

Vì vậy nên thận trọng khi đưa ra chẩn đoán, nếu con bạn có những biểu hiện không bình thường, bạn cần đưa bé đến gặp các nhà chuyên môn để có chẩn đoán và định hướng điều trị cụ thể.

 

I.Tình trạng rối loạn hiếu động kém tập trung:

            Trẻ quá hiếu động, hay gọi theo thuật ngữ chuyên môn là hội chứng  rối loạn hiếu động kém tập trung (ADHD : Attention-Deficit-Hyperactivity Disorder) hay Tăng động giảm chú ý. Theo từ vựng tâm lý của Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em ( Trung tâm NT) tại Việt Nam hội chứng này còn được gọi là háu động. Trẻ trai bị nhiều hơn gấp 4 lần trẻ gái.

Theo nhiều tài liệu, nhiều tác giả cho rằng đây không phải là một bệnh mà chỉ là một rối loạn hành vi ứng xử. Trong năm đầu, trẻ thường có những biểu hiện sau:

–    Hay khóc, thậm chí gào thét

          Ngủ ít, hoạt động nhiều

          ăn uống khó khăn

Cha mẹ và những ngưòi xung quanh sẽ nhận thấy trẻ « có vấn đề » rõ hơn theo sự phát triển dần lên của trẻ ; khi mà người lớn bắt đầu đòi hỏi trẻ «biết làm chủ bản thân » (biết chờ đợi, biết chấp hành một số kỷ luật…) đặc biệt là rối loạn này thường biểu hiện rõ khi trẻ bắt đầu bước vào quá trình xã hội hóa như khi băt đầu đi học.

 

Hội chứng rối loạn hiếu động kém chú ý là một tình trạng có những tổn thương về thần kinh mang tính di truyền mà nguyên nhân cơ bản là sự thiếu hụt về liều lượng nhũng chất dẫn truyền trong các tế bào não.

Đối với trẻ bị hội chứng ADHD, khi kiểm tra não bộ thường có các biểu hiện cho thấy ở những vùng não bị tổn thương, có những tế bào còn non, vì thế chúng không có khả năng sản xuất ra các hoạt chất dẫn truyền, điều này khiến cho việc truyền tải thông tin giữa những tế bào bị giảm sút. Tuy mang tính bẩm sinh, nhưng thường khi trẻ trên 3 tuổi những rối loạn về vận động và kém chú ý mới bộc lộ rõ ràng, và điều này sẽ kéo dài cho đến khi trẻ 14 tuổi, nếu được điều trị và tập luyện thì với độ tuổi này, việc tiết ra các chất dẫn truyền sẽ được cải thiện và trẻ sẽ ổn định. Ngược lại, nếu không được chăm sóc tốt, thì tình trạng sẽ không giảm bớt khiến trẻ sẽ gặp nhiều trở ngại trong các mối quan hệ, ứng xử và sẽ có những ảnh hưởng nặng nề khi trẻ trưởng thành.

 

Các biểu hiện thường gặp ở trẻ

    Luôn động đậy chân tay, ngọ nguậy người, đẩy bàn ghế, vẽ bẩn lên bàn ghế…

    Khó ngồi yên một chỗ, ngay cả khi người lớn yêu cầu

    Dễ nổi cơn hung hăng, cào cấu, cắn bạn…Cảm xúc thay đổi nhanh, có những cơn hờn giận kéo dài.

    Rất khó hòa nhập với nhóm, khó kết bạn, thường hay tự rút lui khỏi một nhóm bạn
Chân tay vụng về, hay làm đổ vỡ.

    Không biết vâng lời

    Không biết tôn trọng giới hạn

    Có những ứng xử không phù hợp với hoàn cảnh, không được chấp nhận, đặc biệt khi đến một môi trường lạ.

    Không biết rút ra bài học từ các sự việc, hiện tượng

    Có rối loạn giấc ngủ

    Những trẻ này hầu như chẳng bao giờ biết mệt mỏi là gì trong khi bố mẹ và những người lớn xung quanh thì mệt mỏi và hoa mắt lên khi nhìn chúng chạy nhảy

    Khó khăn trong việc tập trung chú ý

    Chậm phát triển hoặc có khó khăn về ngôn ngữ (vụng đọc, vụng viết, kém về ngữ pháp…)

    Có thể có khó khăn trong việc học toán, nhất là toán đố.


II. Nguyên nhân

Có hai quan điểm khác nhau về nguyên nhân gây ra ADHD :

1-      Nguyên nhân tâm lý : Do có rối nhiễu trong gia đình, có sai lầm về phương pháp chăm sóc và giáo dục của cha mẹ…Nguyên nhân này được nhắc đến nhiều bởi các nhà tâm thần học và tâm lý học trẻ em.

2-    Nguyên nhân thần kinh : Do rối loạn hoạt động não được nhắc đến nhiều bởi các nhà thần kinh học trẻ em, các phòng thí nghiệm chuyên nghiên cứu về thuốc điều trị. Đặc biệt từ năm 2001, các nhà sinh lý thần kinh học của Mỹ kết luận rằng trẻ có rối loạn này là do có tổn thương một vùng não, gây rối loạn chú ý và vận động.
Ngoài ra gần đây nhất có một số tác giả cũng đặt ra giả thiết nghiên cứu về nguyên nhân do gène di truyền nhưng hiện tại chưa có một kết luận chính thức nào.
Những trẻ sinh non, sinh thiếu tháng, sinh khó, cân nặng thấp dưới 1500g, mẹ hút thuốc hoặc uống nhiều rượu trong thời ký mang thai…cũng là một trong những yếu tố có thể gây ra hội chứng rối loạn này ở trẻ. cả hai trường phái đều khẳng định là có sự tham gia tác động của yếu tố môi trường.

III- Chẩn đoán

            Chẩn đoán là bước quan trọng nhất để dẫn đến quyết định đưa ra đường lối trị liệu, tất cả các chuyên gia đều cho rằng nên hết sức thận trọng khi đưa ra chẩn đoán trẻ mắc rối nhiễu này. Để chẩn đoán được trẻ cần được khám qua một quá trình như sau :

Khám tổng thể về cơ thể

Hỏi tiền sử gia đình và chính bản thân trẻ

Khám thính giác, thị giác

Thăm khám về khả năng trí tuệ và vận động

Chụp cắt lớp não nếu có điều kiện .


Sẽ rất dễ nhầm lẫn giữa một đứa trẻ hiếu động và linh hoạt với một đứa trẻ có những rối lọan thực sự, thường thì các bác sĩ hay chuyên viên phải dựa vào nhiều yếu tố, nhiều biểu hiện trên lâm sàng và sau đó là dựa vào kết quả của các test tâm lý…. Thường trẻ được chẩn đoán là hiếu động kém chú ý thì ngoài các biểu hiện luôn động đậy chân tay, không ngồi yên một chỗ bao giờ… phải có kèm theo một số biểu hiện như : rối loạn phát triển ngôn ngữ, rối loạn phát triển vận động (rất vụng về chẳng hạn) hoặc kém tập trung chú ý. Những trẻ này thường nhảy từ trò chơi này sang trò chơi khác, từ việc này sang việc khác mà ít khi hoàn thành việc nào cả, và chúng cũng thường hay quên. Trong một số trường hợp, rối loạn này còn có thể nhầm với trẻ tự kỷ.

Rối loạn này thường gặp ở những trẻ có độ nhạy cảm cao, có trí thông mình từ mức bình thường trở lên. Gần đây, người ta nhận thấy một phần những trẻ bị rối loạn này có chỉ số thông minh rất cao, có khả năng tưởng tượng rất đặc biệt.

Cũng như các rối loạn khác, ADHD có nhiều mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng và tiên lượng phụ thuộc vào mức độ cũng như trẻ có được chữa trị kịp thời và đúng hướng hay không. Nếu được chữa trị kịp thời và đúng hướng, tỷ lệ đạt kết quả tốt là khoảng 75-80 %. Số còn lại tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ và quá trình chữa trị.


IV- Chữa trị:

Từ cách đưa ra nguyên nhân của hai trường phái nêu trên, có hai hướng chữa trị chính được đưa ra như sau : Thời gian gần đây, ngày càng nhiều thầy thuốc và nhà tâm lý lựa chọn kết hợp cả hai hướng chữa trị này

1 – Bằng các liệu pháp tâm lý :

Các nhà tâm lý trị liệu thường sủ dụng một số biện pháp như:

Trị liệu nhận thức

Trị liệu hành vi ứng xử

Trị liệu tâm vận động

Trị liệu gia đình

Các biện pháp trị liệu ứng dụng nghệ thuật cũng được áp dụng rất nhiều như vẽ, nặn, âm nhạc…

Sử dụng đồ chơi và trò chơi. Các trò chơi với cát hoặc nước được rất nhiều nhà tâm lý tai Pháp sử dụng. Tất nhiên để áp dụng được còn tùy vào điều kiện sống của gia đình, nhưng nếu điều kiện cho phép thì cha mẹ có thể cho bé tập bơi chẳng hạn. Đồ chơi nên chọn những đồ có nhiều màu sắc, đa dạng, có độ bền nhất định, có độ an toàn phù hợp với từng độ tuổi và từng mức độ nặng nhẹ của bệnh, từ dễ đến khó, từ đòi hỏi tập trung ít đến nhiều.

Các nhà tâm lý trị liệu cũng thường hay sử dụng những con thú bông nhỏ để cho trẻ chơi, tập đóng kịch, làm một số trò chơi phân vai…

Các biện pháp trị liệu ứng dụng nghệ thuật cũng được áp dụng rất nhiều như vẽ, nặn, âm nhạc…

Tất cả các biện pháp trị liệu này nhằm dạy cho trẻ cách làm chủ các ứng xử, cách tiếp cận và nhận thức vấn đề, giúp cho gia đình tháo bỏ được những mâu thuẫn, thay đổi và sửa chữa những GD sai lầm nếu có, nâng đỡ gia đình, giúp cha mẹ vượt qua được những khó khăn trong tâm lý cũng như trong cư xử hàng ngày với con. Các biện pháp trị liệu tâm lý và hành vi thường đòi hỏi lòng kiên nhẫn và thời gian dài.

2- Bằng thuốc:

Việc dùng thuốc hay không dùng thuốc là vấn đề gây tranh luận rất nhiều trong giới bác sĩ chuyên khoa cả ở Pháp và ở Mỹ, nghiêng về hướng sử dụng thuốc chủ yếu là các bác sĩ thần kinh trẻ em. Chống sử dụng thuốc chủ yếu là các nhà phân tâm, tâm lý học. Ngày 31 tháng 1 năm 2005, trên kênh truyền hình M6 của Pháp có chiếu một phóng sự điều tra về trẻ ADHD, các tác giả đã đưa ra nhân chứng cho cả hai phía, phía nào cũng có lý lẽ và thành công riêng, các tác giả của phóng sự này đã để ngỏ cho cha mẹ và các bác sĩ tự đưa ra quyết định lụa chọn phương pháp trị liệu cho từng trẻ.

Thuốc được sử dụng cho ADHD là Ritaline, nằm trong nhóm thuốc dưỡng thần, đây là loại thuốc đặc thù để điều trị cho những trẻ này. Thuốc giúp cho trẻ tăng cường trí nhớ và tập trung hơn. Tuy nhiên, chỉ có người làm trong các chuyên ngành tâm thần, thần kinh và nhi khoa mới được phép kê đơn thuốc này, và việc sử dụng thuốc cũng được theo dõi rất chặt chẽ của những nhà chuyên khoa.

Thuốc thường được chỉ định cho trẻ từ 6 tuổi vì các nguyên do sau :

Do có thể có những tác dụng không tốt cho hệ thống thần kinh đang phát triển rất mạnh của trẻ. Đặc biệt ở Pháp, việc kê những đơn thuốc tâm thần kinh cho trẻ được kiểm soát hết sức chặt chẽ.

Đối với trẻ dưới 6 tuổi, ADHD nhiều khi chỉ là biểu hiện mang tính chất nhất thời, trẻ có thể đạt được sự ổn định về tính cách sau khi được chăm chữa bằng các hình thức trị liệu tâm lý.

Ở tuổi này, trẻ chưa chính thức bước vào môi trường học tập, các triệu chứng chưa gây cản trở nhiều như khi trẻ bước vào cuộc sống ở trường học.

Trong trường hợp quá cần thiết cho một trẻ dưới 6 tuổi dùng thuốc này thì bác sĩ thường chỉ kê một liều rất nhỏ cho trẻ uống trong một giai đoạn ngắn và phải được theo dõi thường xuyên.


3 – Các biện pháp phối hợp khác:

Về chế độ ăn, Từ năm 1922 Bác sĩ Shannon đã bắt đầu công bố công trình nghiên cứu của ông về ảnh hưởng của thức ăn đặc biệt là đường lên trẻ ADHD, qua nghiên cứu 7 trẻ có rối loạn này, ông nhận thấy các triệu chứng sẽ giảm đi khi những trẻ này ngừng ăn đường và tăng trở lại khi trẻ quay lại ăn đường.

Năm 1974, bác sĩ nhi khoa Freingold phát hiện ra rằng những chất phụ gia thực phẩm, đặc biêt trong nước uống làm cho rối loạn này ở trẻ tiến triển nặng hơn.

Năm 1980, Một dược sỹ người Đức là bà Hertha Hafer xuất bản cuốn sách « la Drogue cachée » (tạm dịch là thuốc độc giấu mặt), viết về những quan sát của bà trên chính đứa con nuôi cũng bị ADHD, cuốn sách có nêu ra rất nhiều loại thức ăn có thể gây hậu quả xấu lên những trẻ bị ADHD như các chất phụ gia, đường, các phosphate được thêm vào trong một số loại thực phẩm chế biến sẵn, bánh quy, nước giải khát có gaz, sữa bò, cao cao, chocolate, cà chua, ngô…

Sau bà, một tác giả khác là Egger cũng nghiên cứu và đưa ra những kết luận tương tự. Các tác giả này khuyên gia đình nên áp dụng thử cho trẻ một chế độ dinh dưỡng như sau trong khoảng ba đến 4 tuần : Về nguyên tắc là một chế độ ăn không đường, không sữa bò và các sản phẩm sữa bò, không trứng, không cam quýt, không cà chua, không chất phụ gia. Cân đối giữa các protéine động vật và thực vật, nhiều rau quả. Cha mẹ phải tự chuẩn bị đồ ăn cho trẻ, không mua đồ ăn sẵn

Để thay thế cho sữa bò và các sản phẩm của sữa bò, cha mẹ có thể cho trẻ ăn thêm thịt, uống sữa đậu nành, ăn tăng thêm đậu phụ và một số loại đậu khác.Hạn chế ăn trứng nhất có thể được. Dùng thêm dầu ăn như dầu hướng dương, đỗ tương, olive…Không ăn ngô

Chỉ uống nước đun sôi để nguội hoặc nước khoáng thiên nhiên, không được uống các loại nước có gaz như coca, bia…

Không được ăn đường, đặc biệt là đường kính trắng, không ăn kẹo và các loại bánh ngọt, để thay thế, có thể cho trẻ ăn mật ong, đường mía, mía, các loại hoa quả ngọt…

Thường thì sau khoảng 3-4 tuần, ứng xử của trẻ sẽ thay đổi hẳn. Khi đó, cha mẹ có thể cho trẻ ăn trở lại một cách tuần tự những thức ăn đã bị loại bỏ trong thời gian qua (cứ ba đến bốn ngày lại thêm vào một loại) và theo dõi phản ứng của trẻ để biết được đâu là nguyên nhân chính gây tăng thêm triệu chứng rối nhiễu cho trẻ. Đối với một số trẻ, thủ phạm chính là các loại nước có gaz, đối với trẻ khác là cà chua… Sau đó cha mẹ có thể thiết lập được một chế độ ăn thích hợp cho trẻ.

Theo các nhà nghiên cứu này, kết quả thu nhận được tốt là khoảng 80 %, với 20 % số trẻ sau khi thay đổi chế độ ăn mà các triệu chứng lâm sang không thấy có thay đổi gì thì nên tìm nguyên nhân khác.

Mới đây, một số bác sĩ đông y Trung Quốc có đưa ra một số phương pháp chữa bằng thuốc đông y với những giải thích có liên quan đến hoạt động của tạng thận. Để chữa được theo phương pháp đông y, cha mẹ cần cho con khám trực tiếp bác sĩ đông y để bắt mạch và chẩn bệnh cho chính xác.



V- Chăm sóc hàng ngày

Khi đã ở trong trạng thái rối loạn này, trẻ thuờng có những mặc cảm về bản thân mình, mình là đứa bé chẳng đựơc ai yêu…tất cả những gì bé phải trải qua trong quá trình giao tiếp với người khác dễ đẩy bé đến trạng thái thu mình, dần dà những ý niệm về bản thân của bé sẽ bị chuyển về chiều hướng tiêu cực. Trong khi đó gia đình cha mẹ thì lại quá mệt mỏi và căng thẳng, dẫn đến việc có thể có những sự cáu giận ngoài mong muốn với trẻ, tất cả những điều này đẩy trẻ và cả gia đình vào vòng luẩn quẩn. Sự bình tĩnh chấp nhận để tìm ra lối hành xử đúng là thái độ lý tưởng cần có của cha mẹ và những nguời thân, bạn hãy làm cho trẻ cảm thấy tình yêu thương của bạn.

Trẻ hiếu động đặc biệt cần một sự đều đặn trong sinh hoạt hàng ngày như người chăm sóc, giờ giấc ăn ngủ… Nếu có điều kiện, cha mẹ nên chỉ để cho bé đến trường MG nửa ngày, nửa ngày còn lại nên để dành cho những giáo dục cá nhân tại gia đình.

Tránh môi trường quá ồn ào, tránh nói quá to với bé, tránh quát tháo ầm ĩ làm cho bé sợ, tránh sự kích động của những trò chơi, phim ảnh mang tính chất bạo lực hoặc có thể có tác động quá mạnh với bé, tránh để bé xem vô tuyến hoặc tiếp xúc nhiều với máy tính.

Tránh việc giáo dục mang tính chất tập thể, mỗi người nói một câu, khi nào nói với bé cũng chỉ nên một người nói.

Chú trọng việc giao tiếp mắt – mắt, có nghĩa là khi bạn cần nói với bé điều gì, tốt nhất là đến trước mặt bé, bạn có thể cúi xuống hoặc đặt bé lên cao để bạn có thể nhìn thẳng được vào mắt bé, nói nhẹ nhàng và rõ ràng, nên sử dụng câu ngắn và dễ nhớ, bạn có thể yêu cầu bé nhắc lại để xem bé đã thực sự hiểu điều bạn nói chưa.

Khi bé trở nên quá hiếu động, không nghe lời bạn nói, bạn nên ôm bé vào lòng, vuốt nhẹ dọc sống lưng bé, chờ bé vượt qua cơn kích động rồi hãy nói chuyện với bé.

Trước khi ngủ nên tập cho bé thư giãn nhẹ nhẹ, xoa người cho bé, đặc biệt là dọc hai bên lưng để giúp bé ngủ say và sâu hơn.

Đồ chơi và trò chơi, cần tránh những trò chơi mang tính chất kích động, cha mẹ nên sắp xếp để bé có một góc chơi riêng yên tĩnh trong nhà, dù là rất nhỏ. Còn nếu có điều kiện, bạn nên cho bé một phòng rộng rãi để ngoài chơi bé có thể chạy nhảy một chút mà không làm phiền đến các thành viên khác trong nhà.

Bố trí nhà cửa cũng nên thận trọng, trẻ háu động hay tò mò, xem xét, nghịch và ít làm chủ được bản thân, vì vậy nên cất hết những đồ có thể gây nguy hiểm cho bé

   Cv. Tl LÊ KHANH

Lê Khanh
Lê Khanh
Chuyên gia tâm lý