Hội chứng …nghỉ Tết
04/02/2013
Đừng làm trẻ mất hứng thú
06/02/2013
Hội chứng …nghỉ Tết
04/02/2013
Đừng làm trẻ mất hứng thú
06/02/2013

Con người là một sinh vật xã hội, sự hình thành và phát triển của một cá thể lệ thuộc rất nhiều vào môi trường xung quanh, điều đó có nghĩa là sự giao tiếp giữa một cá thể với người khác đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách..

thậm chí con người sẽ không trưởng thành hay không thể tồn tại nếu rơi vào một môi trường bất lợi. Vì lệ thuộc vào môi trường xung quanh, nên kỹ năng giao tiếp là điều cơ bản góp phần vào quá trình phát triển cho một đứa trẻ, những khó khăn do khả năng giao tiếp hạn chế sẽ tạo nên những tổn thất khá lớn về tâm sinh lý. Vì vậy phụ huynh cần hết sức quan tâm để tạo ra những điều kiện thuận lợi giúp trẻ hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp

Một điều rất quan trọng trong việc hình thành kỹ năng giao tiếp là việc tập nói cho trẻ. Khi tập nói, phụ huynh cần có sự phân biệt các khái niệm sau:

Nói: Là khả năng phát đúng âm, biết ghép âm để hình thành từ và câu
Ngôn ngữ : Là hệ thống giao tiếp bao gồm từ vựng và ngữ pháp. Từ vựng có thể là từ nói, ra dấu tay, vẽ biểu tượng trên giấy. Ngữ pháp là các luật lệ về từ.

Giao tiếp : Là hình thức truyền thông từ người này sang người khác, bao gồm các ngôn ngữ nói và ngôn ngữ cơ thể ( ra dấu, nét mặt, vận động cơ thể )

Như vậy, tập nói cho trẻ trước hết phải đạt được các mục tiêu về phát âm đúng và biết cách ghép âm. Nhưng, trẻ có thể sử dụng các hình thức giao tiếp không lời để tạo ra sự thông hiểu nơi bố mẹ, và khi bố mẹ tỏ ra không quan tâm đến ý nghĩa của các dấu hiệu này, trẻ sẽ không muốn giao tiếp nữa, và như thế trẻ sẽ không thích nói nữa.
Vì vậy, bố mẹ trước tiên phải chú ý đến ý nghĩa của các ngôn ngữ không lời, không phải để đáp ứng , vì như vậy trẻ cũng không cần sử dụng đến lời nói nữa. Sự quan tâm ở đây là hiểu trẻ muốn gì, và sau đó trao đổi, diễn giải ý muốn của trẻ ra bằng lời nói.
TD: Trẻ dơ tay chỉ về phía bàn nước – Mẹ : À, con muốn uống nước ! Con muốn uống nước phải không? Mẹ sẽ lấy ly cho con, đây mẹ rót nước vào ly này …

Khi trẻ đã có thể phát ra âm thanh với một từ ngắn gọn :

Những từ không rõ : Brừ… à à … ma ma …

Những từ bao hàm : Không… gì? ( áp dụng cho cả việc hỏi và trả lời)
Ngưòi mẹ có thể dựa vào tình huống để diễn giải ra : À, con muốn gì? Uống nước phải không? Con muốn ăn bánh hả ?

Trẻ cũng có thể không nói, nhưng sẽ gây ra những tiếng động để tạo sự chú ý, trong trường hợp này, ta cũng cần phải diễn giải và xem phản ứng của trẻ, chấp nhận ( diễn giải đúng) hay không chấp nhận ( diễn giải sai) sự diễn giải của bố mẹ.
Chúng ta đừng đòi hỏi một trẻ chậm nói phải đáp trả ngay, các câu hỏi hay sự diễn giải của mình, chỉ cần trẻ hiểu là bố mẹ có quan tâm đến trẻ, trẻ hiểu được những từ ( uống nước – cái ly…) đáp ứng đúng nhu cầu của mình là đủ. Trẻ sẽ dần dần lĩnh hội và sẽ đáp ứng sau một thời gian ( đôi khi cũng khá dài – đừng lo lắng, nôn nóng)


 TÌNH TRẠNG CHẬM NÓI:

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình hình thành ngay từ khi mới sinh ra , với một trẻ bình thường không có những tổn thương về thính lực và trí não thì sự phát triển về ngôn ngữ có thể tạm chia ra các thời điểm như sau:

THỜI ĐIỂM LỜI NÓI – NGÔN NGỮ

0 – 3 tháng – Phát âm theo bản năng những thanh âm vô nghĩa- Phát triển các vận động để hình thành ngôn ngữ cơ thể diễn tả các cảm giác, nhu cầu : Đói, lạnh, sợ, ngạc nhiên, lo lắng , hài lòng, vui vẻ…

6 tháng tuổi – Bắt đầu bập bẹ các âm môi như pa,pa, mama….- Tập nhắc lại các âm mà trẻ đã nghe được.- Có khả năng diễn tả một số tình cảm qua nét mặt.

12 tháng tuổi – Nói được những từ đơn, liên quan đến những người xung quanh : bố, mẹ,bà.- Biết diễn tả một số nhu cầu qua các từ đơn: măm măm, ị, bô, bánh, cơm…- Có khả năng tạo ra những quan hệ giao tiếp qua cử chỉ- Biết chỉ các đồ vật mà trẻ muốn

18 tháng tuổi – Có vốn từ khoảng 10 – 20 từ nhưng có khả năng hiểu gấp 10 lần khả năng nói ( cho thấy yếu tố quan trọng của môi trường xung quanh)- Nói được những từ có liên quan đến hoạt động và nhu cầu cơ thể- Có thể nói được những từ đôi : măm chuối, bố bế, mẹ bế, đi về …- Có thể nhắc lại các câu đơn giản: Chào bác ạ, hoan hô bé…- Nhận biết sơ đồ cơ thể ( biết tên và chỉ đúng một số bộ phận)

2 tuổi – Có một số vốn từ trung bình khoảng 200 từ mà 2/3 là danh từ- Biết nói những câu ngắn : Bố đi làm, mẹ đi chợ, rửa chân tay- Có ý thức tự chủ , tự biết tên mình, nhưng chưa phân biệt được cái gì của mình, cái gì của người khác ( tính duy kỷ: Cái gì nắm trong tay là của mình) – thường dùng tên ( tên khai sinh hay tên gọi ở nhà ) để xưng hô, chưa biết xưng con hay em, cháu với người xung quanh.

3 tuổi – Nói được những câu ngắn, có chủ từ , động từ .- Vốn từ phát triển nhanh chóng (nếu có được môi trường giao tiếp thích hợp) Nói được khoảng 200 từ, hiểu được 1000 từ, biết hát các bài hát ngắn, đọc các câu thơ, câu vè có vần điệu . Kể lại các câu chuyện ngắn dù chưa hiểu nội dung.

4 – 5 tuổi Vốn từ phát triển khá hoàn thiện, làm chủ đưọc các câu nói, có thể noí chuyện với người lớn, biết xưng hô con, cháu, trò .Biết dùng các đại danh từ : Chị ấy, chúng nó, của chị, của nó…Biết sử dụng ngôn ngữ về thời gian, không gian, biết hỏi : ở đâu, tại sao, khi nào ? – Biết phân biệt các khái niệm cao thấp, nhỏ – to, mầu sắc, sáng tối…

6-7 tuổi Ngôn ngữ đã hoàn thiện .

Như vậy, với một trẻ chậm nói, thường thì cha mẹ dễ dàng phát hiện ra trong khoảng 1- 3 tuổi với những hạn chế về phát âm và vốn từ, và khả năng cải thiện sẽ kéo dài cho đến năm trẻ được 6 – 7 tuổi. Quá thời điểm này, khả năng phát triển ngôn ngữ sẽ hết sức khó khăn.

LẬP KẾ HOẠCH :

Trong việc lập kế hoạch giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, cha mẹ phải tìm ra được những gì mà trẻ có thể làm, ta phải quan sát trẻ đang cố gắng giao tiếp bằng cách nào: Dùng điệu bộ, từ hay âm. Cũng cần phải biết trẻ có ý định giao tiếp ( tích cực) hay chỉ là phản ứng (tiêu cực) trước sự kích thích của người khác.

Khi biết trẻ có ý định giao tiếp ta hãy giúp trẻ có khả năng giao tiếp với từng loại thông tin khác nhau. Khi trẻ chỉ có phản ứng, ta vẫn chấp nhận phản ứng của trẻ nhưng cố gắng giúp trẻ chủ động hơn trong sự giao tiếp

Trong trường hợp trẻ tỏ ra không biết hay không muốn giao tiếp, ta cần có những tác động kích thích ( ôm ấp, vỗ về, hỏi han, cười, nhìn tre ) Và khi trẻ đã có phản ứng, hãy khích lệ trẻ để trẻ có thể nói ( bằng lời hay bằng dấu hiệu) các nhu cầu của mình.
Trẻ có thể có những phản ứng đồng ý hay không đồng ý, đôi khi chúng ta cần có những tác động để trẻ phản đối ( lấy đồ chơi, bắt trẻ ngưng làm điều mà trẻ thích ) nhưng là để quan sát cách ( hay ngôn ngữ) phản đối của trẻ chứ không nên kéo dài, hay cố gắng trêu chọc dể trẻ phải phản ứng mạnh hơn .

Trong cuộc sống, trẻ sẽ có sự quan sát và ghi nhận những hoạt động bằng hình ảnh và ngôn ngữ xảy ra chung quanh mình . Vì vậy bố mẹ cần tích cực trong việc :

Chào hỏi nhau, chào hỏi bạn bè, họ hàng, con cái … để trẻ học và hiểu ý nghĩa các lời chào hỏi này. Và thường xuyên tác động khi gặp trẻ bằng những câu chào hỏi.
Mô tả, nói ra những nhu cầu của trẻ, những yêu cầu và hành động của bố mẹ, của những người xung quanh, giúp trẻ tăng cường vốn từ, sự hiểu biết.

Khi hỏi hoặc trả lời trẻ, không nên hỏi hay trả lời một cách khái quát: Con muốn gì? Con muốn chơi gì ? mà nên hỏi một cách cụ thể : Con muốn uống nước lọc hay nước cam? (trong trường hợp trẻ chưa phân biệt được, nên đưa ra cho trẻ xem và để trẻ tự chọn lựa ) Hay: Con muốn chơi búp bê hay xếp hình ?

Trước khi cho trẻ ăn, ngồi nghe nhạc, xem TV hay chơi các món đồ chơi, nên đặt ra vài câu hỏi : Con muốn ăn cơm với thịt ? đồ xào ? hay con muốn xem phim gì? Con muốn chơi gì ? … (Mặc dù có thể trẻ chưa hiểu hết ý nghĩa của các từ này, nhưng trẻ sẽ học được cách hỏi và trả lời, và dần dần khi hành động này lập đi lập lại, trẻ sẽ hiểu cơm là gì, búp bê là gì )

Khi chơi với trẻ, hãy thường xuyên đặt câu hỏi và tự trả lời (vì trẻ sẽ không thể trả lời ngay, hay chỉ có thể phản ứng bằng hành động: gật đầu, lắc đầu, đẩy ra, đưa tay tóm lấy… )

Thỉnh thoảng có thể dấu một món đồ đi và đặt ra câu hỏi : Con búp bê đâu rồi ?
Trong việc dạy trẻ, một điều rất quan trọng là cần kết hợp giữa SỰ VUI THÍCH và YÊU CẦU. Nếu muốn trẻ học tốt, trẻ phải có sự vui thích trong khi học ( vì vậy việc hướng dẫn từ ngữ nên thông qua các trò chơi là chính, hay phải biến ngay cả những hoạt dộng bình thường – như ăn uống… cũng trở thành những trò chơi.

Như vậy, việc lập một kế hoạch tập nói cho trẻ phải dựa trên các yếu tố sau :

– Nói với trẻ, diễn giải ra bằng ngôn ngữ nói càng nhiều càng tốt.

– Nói và giải thích, hỏi và trả lời một cách thật cụ thể.

– Tạo ra mọi cơ hội trong mọi thời điểm và ở mọi nơi.

– Chú trọng yếu tố vui thích trong mọi yêu cầu.


QUAN HỆ VỚI MỌI NGƯỜI

Phát triển sự quan hệ với mọi người là một yêu cầu thiết để giúp trẻ học cách giao tiếp. Từ nhỏ, trẻ chậm phát triển ngôn ngữ đã có sự hạn chế trong việc giao tiếp với mọi người, đặc biệt là với những người thân. Vì vậy trẻ cần được tăng cường rất nhiều sự quan hệ này thông qua các hoạt động tiếp xúc gần gũi như trong các trò chơi, cười đùa, bồng ẵm, gây tiếng động và tiếp xúc qua ánh mắt, đặc biệt là đối với bố mẹ.
Bố mẹ có thể tạo ra mối quan hệ thông qua một hoạt động cùng nhau ( ăn chung, chơi chung, làm một việc gì đó trong nhà chung với nhau ) hay thông qua một vật ( cùng trò chuyện qua một câu chuyện kể với những con búp bê, con rối – cùng nhìn về một vật, một hình ảnh nào đó) Cùng xem tranh với trẻ, chỉ cho trẻ các hình ảnh và nhân vật với lời thuyết minh ngắn gọn rõ ràng, cụ thể và đơn giản.

Ngay cả trong các hoạt động bình thường, khi thấy trẻ có vẻ muốn hỏi ( đưa mắt nhìn) ta nên nói cho trẻ biết công việc mình đang làm : Mẹ đang nấu cơm, đang soạn bài, đang xếp quần áo, đang đánh vi tính …

Lần lượt cũng là một kỹ năng quan hệ quan trọng. Trong hội thoại cần tạo ra các tình huống lần lượt. Ta nói, sau đó đợi trẻ nói, rồi ta nói (có thể trẻ đáp ứng chậm, hay rất ngắn ngủi, nhưng ta phải biết chờ đợi, khích lệ và kiên nhẫn)

Bố mẹ nên tìm ra các hoạt động đơn giản trong khi chơi với trẻ để dạy như lần lượt tung quả bóng lên – xây các tháp gỗ bằng cách lần lượt đặt các mẩu gỗ lên – lần lượt vỗ tay …


HỌC BẮT CHƯỚC:

Bắt chước là một kỹ năng thiết yếu trong việc giao tiếp, trẻ có thể bắt chước hành động (ngôn ngữ không lời) và tiếng nói. Với trẻ bắt chước bằng hành động là dễ nhất, và thông qua những hành động mà trẻ có khả năng bắt chước, ta có thể đánh giá khả năng tiếp thu của trẻ. Ta có thể kích thích hay tập cho trẻ bắt chước bằng cách bắt chước chính những động tác của trẻ

Ví dụ: Trẻ dơ tay sờ mũi, ta cũng sờ mũi trẻ sẽ bắt chước lặp lại hành vi trên, điều này sẽ tạo ra sự chú ý cho trẻ, từ đó ta chuyển sang hành động khác như sờ tai, trẻ sẽ làm theo…
Với một số trẻ tỏ ra thờ ơ trong việc bắt chước, ta hãy kiên nhẫn tập cho trẻ lập lại những động tác trên bằng cách nắm lấy tay trẻ sờ vào mũi, vào tai của ta – Sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai cơ thể là điều kích thích cảm giác nơi trẻ ( Đây cũng là một cách đánh giá, với các trẻ Tự kỷ thì việc tiếp xúc qua làn da, qua việc đụng chạm cơ thể với người khác là điều hết sức khó khăn, thậm chí có thể gặp sự từ chối hay phản ứng quyết liệt của trẻ ).
Khi trẻ đã bắt đầu có hứng thú trong việc bắt chước các hành động, ta sẽ chuyển dần sang sự bắt chước các âm thanh.

Cũng bắt đầu với âm thanh mà trẻ tự phát ra hay tự bắt chước. Việc khen thưởng và động viên bằng hành động ( vuốt ve, xoa đầu, ôm vào lòng, cười hài lòng) hay bằng lời nói (khen ngợi) là điều quan trọng, cần tiến hành thường xuyên trong việc tập cho trẻ các hành vi bắt chước.

Thường trẻ thích bắt chước tiếng súc vật ( gà gáy, chó sủa … ) tiếng xe cộ, máy bay … trước khi nói được. Hoạt động này, nếu có điều kiện nên diễn ra với sự tham gia của các trẻ khác hay với các người thân trong gia đình – Bố me,anh chị cùng tham gia, cùng phát âm (trong những trò chơi ) để trẻ được kích thích, khích lệ phát ra lại các âm thanh đã nghe được.

Như vậy, việc tập cho trẻ “biết nói” không phải đơn giản là cứ “về nhà nói chuyện nhiều với trẻ” như một số lới khuyên của những người thiếu kinh nghiệm về tâm bệnh lý trẻ em, các bậc phụ huynh cần phải có sự trao đổi và chẩn đoán ở các chuyên gia tâm lý lâm sàng về trẻ em, từ đó mới có thể đánh giá mức độ và tình trạng chậm nói của con em, sau đó mới có thể có những kế hoạch can thiệp hợp lý.

CvTL Lê Khanh

Trung tâm TVTL & ĐTKN Rồng Việt  Vũng Tàu

Lê Khanh
Lê Khanh
Chuyên gia tâm lý