hình ảnh ngộ nghĩnh
26/04/2011
Ứng xử trong gia đình
28/04/2011
hình ảnh ngộ nghĩnh
26/04/2011
Ứng xử trong gia đình
28/04/2011

Về một khía cạnh nào đó, chúng ta đang sống trong không gian đầy màu sắc. Sự cảm nhận về màu sắc đã giúp mọi người lựa chọn vật dụng, đồ dùng theo sở thích. Nhưng khi cần phân biệt và mô tả về màu sắc thì không phải ai cũng làm được..

 

 

NGÔN NGỮ CỦA MÀU SẮC

Đã có lúc, có thời, người ta chỉ phân biệt mọi vật theo hai màu trắng đen. Theo các nhà nghiên cứu, điều đó bây giờ còn thấy ở NewGuinea. Phổ màu về sau được bổ sung thêm màu đỏ, màu xanh (một số khu vực châu Phi). Người Trung Quốc sau khi có khả năng cảm thụ các màu trắng, đen, đỏ, xanh lá cây, vàng…, mới phân biệt thêm màu xanh dương; tiếp theo là màu vàng nâu như người Indonesia, Maylaysia. Cuối cùng mới có các màu hồng, da cam như ở người Nhật, Anh, Nga.

Để phân biệt và liệt kê được các màu, nhân loại phải trải qua một quá trình dài, có khi hàng thế kỷ. Theo Từ điển bách khoa của nước Anh, năm 1493, trong tiếng Anh mới xuất hiện những từ chỉ màu sắc dựa theo cây cỏ như màu đỏ, màu rêu. Năm 1497, mới có những từ chỉ các vật trong giới vô sinh như màu lửa, màu than, màu khói. Năm 1570, xuất hiện những từ chỉ màu sắc của cây cối cụ thể như màu ôliu, màu nho, màu cam, màu cà phê. Năm 1778, mới có các màu của đồ vật do con người làm ra, như màu mực màu vỏ chai. Đến thời hiệen đại, thời kỳ của xã hội công nghiệp, mới xuất hiện từ màu xanh côban, màu dỏ hun…

Ngôn ngữ của mỗi dân tộc có khả năng nhất định trong việc xây dựng các từ chỉ màu sắc. Tiếng Pháp có 178 từ ngữ chỉ màu sắc được sử dụng tích cực. Tiếng Anh có 154 từ ngữ, tiếng Nga có 133; tiếng Đức có 120; tiếng Nhật có 45 từ ngữ. Có một số từ, cụm từ từng xuất hiện, sau đó mất dần đi do không hợp thờ, như tại Việt Nam hôm nay là: xanh sỹ lâm, màu hồ thủy… Đối với nhiều người cụ thể, sự phân biệt các sắc thái của màu sắc thật khó khăn. Qua điều tra bằng câu hỏi, nhiều người cho màu xanh màu xanh lơ và màu xanh lá cây là một, xanh ngọc bích và xanh da trời lẫn lộn, nếu hỏi màu hồ thủy là gì hẳn nhiều người chưa tưởng tượng nổi. Mỗi dân tộc lại có cách tư duy và gọi tên màu sắc khác nhau, tùy theo trình độ phát triển văn hóa xã hội.


MỐI LIÊN HỆ GIỮA TÍNH CÁCH CON NGƯỜI VỚI MÀU SẮC

Các nha khoa học còn cho thấy mối liên hệ giũa tính cách mỗi người với màu sắc. Nhìn chung, người khỏe mạnh thường lựa chọn những màu giữa tím đỏ và vàng da cam; người không nhạy cảm chọn những màu giữa xanh vàng và xanh da trời; người nhạy cảm hướng nội chọn giữa màu xanh da trời và màu tím đỏ; người nhạy cảm hướng ngoại chọn giữa màu đỏ và vàng; người hướng tới cuộc sống chọn giữa màu vàng da cam và vàng; người định hướng vào con người thường chọn màu giữa màu đỏ và màu xanh lam; người hướng vào cá nhân chọn màu từ xanh lá cây tới xanh lam.

Sự cảm thụ và yêu thích một màu sắc nào đó của mỗi người có sự thay đổi theo trạng thái sức khỏe. Như khi người ta yêu thích màu xanh và xám là dấu hiệu của sự căng thẳng thần kinh, nhưng nếu đồng thời lại thích cả màu vàng lại là biểu hiện của sự tươi vui. Các nhà tâm sinh lý học cho rằng, phụ nữ mang thai thường thích màu đỏ – tím, thể hiện trạng thái bệnh tật tạm thời, sự sẵn sàng nghe theo lời khuyên, nhu cầu được quan tâm chú ý… Nếu phụ nữ lạ chối từ các màu đỏ – tím, người đó chưa sẵn sàng đón nhận sự sinh nở;  nếu chị ta từ chối cả màu vàng nữa thì đứa bé sinh ra không phải là niềm mong ước của chị ta và việc sinh nở khó khăn. Phần lớn những người nghiện rượu thích màu đỏ tím nhưng không thích màu vàng. Cơ thể của những người này luôn bị tổn thương và nói chung có sự trì trệ về trí tuệ. Họ thường không làm chủ được bản thân, dễ bị sai khiến. Bệnh nhân lao phổi luôn lo lắng đến sức khỏe của mình, họ thích màu vàng/ da cam vì nó biểu hiện sự trong lành của không khí; không thích màu cari, màu nâu, vì coi là xấu, liên tưởng tới bụi có hại cho phổi…


TIẾNG NÓI CỦA MÀU SẮC

Màu sắc tạo ra tính cách và tính cách được thể hiện qua màu sắc. Một ví dụ điển hình là màu sắc trang phục có thể phản ánh tính cách, giới tính, tuổi tác, thời tiết, nghề nghiệp, bản sắc dân tộc…

Trước hết nói về màu trắng, màu thể hiện sự bắt đầu. Đối với người châu Âu, bộ váy trắng của cô dâu thể hiện sự bắt đầu một cuộc sống mới. Đối với người châu Á, bộ đồ tang màu trắng cũng là sự bắt đầu của một cuộc sống mới nhưng ở thế giới bên kia. Bộ đồ trắng của bác sĩ thể hiện sự tinh khiết trang tâm hồn của những người mang phước lành đến cho người bệnh. Màu trắng là màu của lòng nhân hậu, chống lại mau đen, màu của chết chóc và cái ác. Ở châu Âu, có thuật ngữ “những người màu trắng” chỉ những người không thích nhìn lại quá khứ khỏi sự suy nghĩ của mình để làm lại từ đầu.

Màu đen lại là thể hiện sự kết thúc. Chính vì vậy nó đồng nghĩa với cái ác, sự nguy hiểm, đe dọa, cưỡng bức, chết chóc và tang tóc. Ở châu Âu, tục mặc đồ tang màu đen lần đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ 12 do hoàng đế Liudovik mặc sau cái chết của người vợ yêu quý, hoàng hậu Anna.

Màu đỏ trang tiếng Nga và tiếng Arập đồng nghĩa với cái đẹp (quảng trường Đỏ ở Matcơva, nước Nga, nguyên nghĩa từ Đỏ là đẹp). Đây là màu nặng, màu nóng, màu khô và ngọt. Nó như làm cho thời gian chậm lại, trong khoảng thời gian ngắn nó tác động làm nâng cao năng suất lao động, làm cho căn phòng ồn ào càng thêm ồn ào. Chính vì vậy màu đỏ mang đến sức mạnh, sức khỏe, niềm vui, sự giàu có, quyền lực. Màu đỏ là màu của các ngôi nhà công cộng, hội trường, của cách mạng, màu mực mà chỉ những người có quyền lực được sử dụng như vua, giám đốc (mực con dấu), thầy cô (bút đỏ chấm điểm). “Những người đỏ” là những người tích cực trong mọi hoạt động, những người thủ lĩnh.

Màu đỏ pha trắng tức màu hồng, trong tâm lý học thể hiện cho sụ lãng mạn mơ mộng, sự phấn khích không tạo ra một hành động nào, mục đích được thay đổi bằng cái vô mục đích, vì vậy màu này biểu trưng cho tuổi mới lớn. Từ đây mới xuất hiện cụm từ “ lăng kính màn hồng”. Màu da cam là màu của trẻ con, vì vậy đàn ông thích màu này là người thích tham gia vào hoạt động vui chơi tập thể, còn phụ nữ là người hay cahỵ theo những ham muốn cháy bỏng.

Màu vàng là màu của lòng lạc quan và hy vọng. Nếu màu vàng pha thêm một chút màu xanh ta được màu chanh, màu nhẹ nhất trong tất cả các màu. “Những người màu vàng” là những người phụ thuộc vô thức. Màu xanh bấy lâu nay được coi là màu của tuổi trẻ, từ đó trong dân gian mới có câu “xanh mái đầu”; màu xanh cũng được coi là biểu tượng của phụ nữ. Có thời người ta coi màu này là biểu tượng của “tư sản”, như phân biệt “nhạc đỏ” đầy phấn kích với “nhạc xanh” nhẹ nhàng tươi mát. Những người thích màu này là những người tự tin không thích thay đổi mình mà chỉ tự khẳng định.

Màu sắc cũng phản ánh đặc điểm khu vực và dân tộc. Dân cư nông thôn phụ thuộc nhiều vào những yếu tố bên ngoài và sống bằng trực giác nhiều hơn nên họ thích màu như da cam/ đỏ/ tím/ đen. Đó là nông thôn châu Âu, còn nông thôn châu Á thích màu đỏ, xanh dương, thẩm mỹ màu sắc của họ cũng có liên quan đến việc tìm “vận may” qua màu sắc, song cũng có tố chất thích lòe loẹt.


MÀU SẮC VỚI NGƯỜI PHƯƠNG ĐÔNG

Người phương Đông, cụ thể hơn là người Trung Hoa, Việt Nam xưa có hẳn một triết lý riêng về màu sắc theo tính ngũ hành. Theo triết lý này, trong tự nhiên chỉ có 5 màu cơ bản: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Màu kim sáng sủa, sắc trắng; màu mộc sắc xanh; màu thủy sắc đen; xám; màu hỏa sắc đỏ; hồng; màu thổ sắc vàng, nâu. Các màu đứng cạnh nhau nếu có sự sự tương sinh sẽ tạo ra cảnh sắc đẹp đẽ, thể hiện trạng thái bình an, phát triển; nếu co sự tương khắc sẽ báo hiệu một cái gì đó xung đột, sự hủy diệt, tranh đấu mà cuối cùng dẫn đến tan vỡ, xa lìa. Chẳng hạn, màu đỏ đứng cạnh màu vàng, màu xanh là đẹp, hợp; những đứng cạnh màu trắng, màu đen là xấu, không hợp. Cờ của các triều đại phong kiến đều có 5 sắc sử dụng theo triết lý ngũ hành, sự phối màu cờ theo cách thức: vàng – trắng – đen – xanh – đỏ, chứ không phải là vàng – đen – đỏ – trắng – xanh. Xếp theo cách thứ nhất sẽ báo hiệu sự phát triển, sự trường tồn thắng lợi và đẹp nếu xếp dưới khía cạnh thẩm mỹ. Còn theo cách thứ hai có sự tương khắc theo triết lý ngũ hành: thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ. Người Á Đông khi thấy đã có khắc là không tốt đẹp.

Đối với dân cư nhiều khu vực, màu sắc còn là điềm báo, là phản ánh trạng thái một xu thế, một hiện trạng của đối tượng. Như màu xanh biểu trưng sự vĩnh cửu, hòa bình. Màu đỏ nói lên hạnh phúc, sự vui mừng. Màu vàng là màu thể hiện sự giàu có, màu của các đấng tối cao, như hoàng đế các triều đại phong kiến Việt Nam, Trung Hoa: trang phục và đồ dùng đều màu vàng. Màu trắng thể hiện sự bi ai, thanh khiết, màu của sự bình thường. Màu đen là màu phái hoại, trầm ẩn, màu của địa ngục. Tần Thủy Hoàng sau khi diệt nh2 Chu thống nhất thiên hạ, lên ngôi hoàng đến, đã chỉ lệnh áo, quần, cờ mao, cờ tiết đều dùng màu đen; vì nhà Chu là “hỏa đức”, là màu thủy là đen, thủy lại có tính chất và sức mạnh khống chế dập hỏa. Thực tế lịch sử đã chứng minh, triều đại nàh Tần là triều đại tàn khốc nhất trong các triều đại phong kiến Trung Hoa. Phải chăng màu đen, mà biểu tượng của nhà Tần đã nói lên điều này? Màu sắc biểu trưng của nhà Thanh Trung Hoa là màu xanh dương, hàm ý triều đại này trường tồn vĩnh cửu và an bình. Quả là nàh Thanh tồn tại khá lâu, 269 năm (1644-1912). Bởi vậy, sắc phục quan lại, quân lính, nền câu đối, biểu hiện đều màu xanh dương.

Dân gian Đông Nam Á rất trọng lễ tết Nguyên đán đầu năm theo lịch âm. Họ cũng sử dụng màu sắc biểu trưng sự hạnh phúc vui mừng, câu quất quả vàng tượng trưng sự giàu sang được bài trí trong khuôn viên ngôi nhà để đón xuân. Tất cả màu sắc các vật trên đều xuất phát từ triết lý ngũ hành của người Việt Nam, Trung Hoa cổ xưa.

NHẬT HOA

Lê Khanh
Lê Khanh
Chuyên gia tâm lý