Danh mục: Giáo Dục Đặc Biệt

  • MUỐN TRẺ PHÁT TRIỂN

    MUỐN TRẺ PHÁT TRIỂN

    Trong lĩnh vực giáo dục đặc  biệt, người giáo viên không phải người quan trọng nhất, mặc dù đó lại là vai trò được “đầu tư” nhiều nhất. Có rất nhiều phương pháp, kỹ thuật và cả quan điểm về sư phạm đòi hỏi giáo viên phải học tập và biết vận dụng một cách hiệu quả – Tuy nhiên, yếu tố thành bại trong việc giúp cho trẻ phát triển lại không do “nhân vật tài năng” này quyết định mà lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau :

    Về bản thân, thì có lẽ nghề nào cũng đòi hỏi một tấm lòng yêu nghề cao độ, mới làm tốt được nhiệm vụ của mình. Trở thành một người có tay nghề cao. Nghề giáo cũng thế, nhưng nếu yêu cầu một giáo viên đặc biệt chỉ có lòng yêu nghề thôi thì chưa đủ mà còn phải yêu luôn cái đối tượng mà mình đang ra sức uốn nắn là một đứa trẻ “dở hơi” – không biết chào hỏi, thưa gởi, đã không tương tác tốt lại còn luôn làm cho mình bầm mình bầm mẩy, muốn nổi điên về những thái độ, phản ứng không giống ai !  Đã thế, còn phải luôn có tinh thần nỗ lực học hỏi, từ bạn bè, các nhà chuyên môn cho đến sách vở tài liệu và phải luôn biết rút ra những kinh nghiệm khác nhau cho từng đứa trẻ khác nhau !

    Về môi trường xung quanh, thì ngoài một số cơ sở trang bị tương đối đúng chuẩn, có phòng, có sân rộng rãi và các học cụ đa đạng… Thì hầu hết là những phòng ốc không phải là trường, mà chỉ là những căn nhà phố được cải tạo phần nào với những căn phòng sử dụng không đúng công năng và các công cụ không phù hợp với đối tượng là các trẻ đặc biệt.  Không phải là người tổ chức hay chủ cơ sở không chịu đầu tư, mà có khi họ cũng sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để trang bị, nhưng lại “trật bản lề” – Có một dạo, phong trào “Tâm vận động” bùng nổ, các cơ sở đua nhau lắp đặt các căn phòng chơi sặc sỡ, các khối tròn, khối vuông, quả cầu gai, nhà banh, thảm nhựa,cầu thang dốc, thang leo núi … tốn kém hàng chục thậm chí hàng trăm triệu – nhưng nó cũng giống như phòng chơi cho trẻ em trong siêu thị chứ không phải là nơi mà trẻ có thể giải tỏa những khó khăn tâm lý thông qua vận động, bởi vì đa phần đều nghĩ rằng, tâm vận động là phát triển kỹ năng vận động tinh và thô cho trẻ, thậm chí là cả các biện pháp điều hòa cảm giác cũng có mặt với các quả bóng gai và các lối đi rải sỏi có kích thước khác nhau.

    Thế rồi, sau đó lại là những phòng Montessori, khi nhiều người cho rằng Montessori là một phương pháp tiến bộ trong giáo dục trẻ bình thường, thì chắc cũng hiệu quả cho trẻ đặc biệt, thế là lại bỏ ra hàng chục triệu để trang bị một phòng mon đúng chuẩn với các thiết bị tinh tế, sang trọng và có khi là bí mật – Bởi vì, nếu không phải là một giáo viên đươc đào tạo đúng chuẩn của phương pháp này thì có khi cũng không biết các công cụ xinh xắn, đa dạng kia sẽ giúp cho trẻ phát triển cái gì và ai có thể làm điều đó với trẻ.   Dạy trẻ theo phương pháp Mon cũng giống như can thiệp cho trẻ trong phòng tâm vận động, không hề đơn giản như một buổi học – hay một buổi chơi bình thường !  Không phải chỉ cần có công cụ là được mà yếu tố con người là vô cùng quan trọng. Nhất là không phải tre đặc biệt nào cũng có thể áp dụng phương pháp Mon hay Tâm vận động một cách tùy tiện.

    Ngoài các cơ sở “sang chảnh” có những trang bị tiền triệu kia thì còn lại những Nơi gọi là “Trung Tâm” dưới đủ loại tên gọi khác nhau – đều là những căn nhà phố và những trang thiết bị tương tự như một nhà trẻ, mẫu giáo hay tệ hơn là những đồ chơi mua ngoài nhà sách hay các tiệm đồ chơi ngoài chợ mà mục tiêu chỉ là để cho các em có cái để nghịch cho hết ..giờ, hết ngày.  Cũng có những nơi, có trang bị cho các giáo viên một số công cụ khác nhau, nhưng lại không tập cho Gv cách chơi với trẻ qua các dụng cụ đó như thế nào !  thế là “món sở trường” của các cô chỉ là các tấm thẻ tranh, giơ ra cho trẻ xem và tập cho trẻ nói theo mình, lập lại những câu trả lời : Cái này là cái gì, con này là con gì, màu này là màu gì ! cao hơn chút là cùng tập với trẻ một số thao tác vận động thô và tinh cho ..vui,  bởi vì mục tiêu cấp bách nhất là làm sao cho con nói được !

    Một người Giáo viên không được hướng dẫn bài bản, không có sự nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ lại không được trang bị những công cụ có tác dụng cụ thể và được tập luyện với trẻ trong một không gian phù hợp thì không khác nào đem một chiến sĩ tung ra mặt trận mà chưa qua huấn luyện nơi thao trường và cũng không có đủ vũ khí cần thiết, mà lại mong chiến thắng . Nếu có chăng thì chỉ là “may thầy phước chủ” hoặc chỉ đạt được một vài sự thay đổi và nhà trường sẽ thuyết phục phụ huynh chấp nhận sự thay đổi đó như một tiến bộ , khi trẻ nói được dù chỉ là để trả lời các câu hỏi về đồ vật, con vật là coi như có thể cho “ tốt nghiệp” ra trường.

    Một yếu tố khác được xem là “nhân vật phụ” nhưng lại đóng vai trò then chốt trong việc Dạy trẻ, đó chính là phụ huynh các em – Một chuyện ngược đời ! Muốn trẻ tiến bộ thì phải cho đến cơ sở can thiệp, nhưng bố mẹ lại phải biết “dạy con” ! Nhưng có thể nói là – dạy trẻ khó một thì thuyết phục phụ huynh tham gia hoạt động can thiệp cho con khó mười ! Đủ các lý do chính đáng để phụ huynh có thể “trút gánh nặng” cho giáo viên, mà lý do đơn giản nhất : Nếu tôi biết dạy con, thì cần gì tốn tiền, tốn thời gian đưa con đi can thiệp ! Như vậy thì làm sao thuyết phục ? Thôi thì cứ tới đâu hay tới đó, khi nào chánthì cho con nghỉ, mang qua cơ sở khác , sẽ ưu tiên cho nơi nào gần nhà và không đòi hỏi bố mẹ phải xắn tay áo lên !

    Nhưng vấn đề không chỉ là phụ huynh cần phải biết phối hợp, hay đúng hơn là nắm vai trò then chốt trong việc can thiệp cho trẻ, mà là phải biết can thiệp cái gì và như thế nào ? Cũng có nhiều bậc cha mẹ có thiện chí, muốn cùng với giáo viên can thiệp hay thậm chí là tự mình dạy con – Nhưng dạy cái gì trước cái gì sau và dạy như thế nào lại là một thách thức không nhỏ ! Khi có những khóa huấn luyện mở ra, có nhiều người háo hức đi nghe , ôm một đống tài liệu về tham khảo, rồi lên mạng tìm kiếm thông tin, các “tuyệt chiêu” mì ăn liền để chuẩn bị một chương trình can thiệp “ Đẽo cầy giữa đường”  để áp dụng đủ kiểu dạy của những trẻ khác cho con mình. Các phương pháp rất khoa học, các bài giảng rất thu hút, các kỹ thuật rất hấp dẫn nhưng để áp dụng cho con mình thì lại không phù hợp! Chỉ cần mới sửa soạn ngồi xuống dạy là nó đã chạy mất tiêu ! Đó là chưa nói đến nhiều áp lực và kỳ vọng được đặt ra mà mục tiêu là Làm sao con PHẢI NGHE TÔI , chứ ít khi nghĩ đến việc Tôi cần biết CHẤP NHẬN TRẺ như thế nào!

    Người Giáo viên hay người chuyên viên thực sự là cần thiết để cung cấp và giám sát các biện pháp, các kỹ thuật cho bố mẹ biết cần phải làm gì với con và cũng nên biết – Chính môi trường gia đình, nếu biết cách thay đổi từ bầu khí đến cách tương tác, mới là nơi đứa trẻ biến chuyển và tiến bộ,  còn việc trẻ đến trường, đến trung tâm,tập luyện và vui chơi chỉ là nơi trẻ phô bầy hay áp dụng những những tác động tại gia đình.  Nói cách khác, người chuyên viên sẽ định hướng và đưa ra những giới hạn, người giáo viên sẽ tác động thông qua các kỹ thuật và hoạt động , Nhưng  gia đình mới là nơi trẻ tiến bộ với những biện pháp thực hành do bố mẹ áp dụng, không phải là trong những giờ can thiệp khô khan, mà thông qua những hoạt động sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, tắm rửa, vui chơi và học tập tại gia đình kéo dài từ tháng này qua tháng khác . Có thể nói, Nếu trẻ chưa thực sự hòa nhập với gia đình thì cái mục tiêu hòa nhập với xã hội chỉ là cái bánh vẽ !

    Lê Khanh – TT GDĐB Diệp Quang – An Giang.

  • LÀM CHỦ CẢM XÚC – PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG.

    LÀM CHỦ CẢM XÚC – PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG.

    Trong hoạt động can thiệp trẻ tự kỷ – ngoài mục tiêu tác động để trẻ biết nói, đa phần phụ huynh thường ưu tiên về những kỹ năng mà trẻ cần phải đạt được về mặt kiến thức – Để có thể đi đến mục đích quan trọng nhất mà con cần phải đạt được : Mái trường hòa nhập. Phần lớn, khi đã nỗ lực can thiệp cho con có ngôn ngữ, nói được, biết trả lời đúng ngữ cảnh , ai cũng đặt ra câu hỏi : Con tôi đã hòa nhập được chưa ? Nếu như có trung tâm hay giáo viên nào “dám” nhận định : Cháu tuy có ngôn ngữ, biết trả lời, có khi còn biết hỏi nữa – dù câu hỏi và trả lời vẫn còn thô sơ, mà đưa ra lời khuyên : Cháu cần phải biết thêm nhiều kỹ năng nữa, nhất là các kỹ năng cá nhân – Là có khả năng, Phụ huynh sẽ “say goobye” để đi tìm nơi dám nói “chắc nịch”: Cháu đi học hòa nhập được mà – Chị cứ cho cháu đến trường, rồi cháu chơi với bạn, thì cháu dần dần sẽ khá hơn, biết phát triển các kỹ năng giao tiếp. Điều này có thể đạt được nếu không phải là trẻ rối loạn phát triển, mà chỉ là chậm nói đơn thuần ở mức độ nhẹ.

    Nhưng đó là ước mơ tốt đẹp nhất của Phụ huynh trẻ RLPT mà ít ai dám hay nỡ phá vỡ, chỉ có thể để cho phụ huynh tự rút ra bài học sau khi trẻ lên 10 – lên 12 … dù đã nhập đủ loại trường, ngồi đủ loại lớp nhưng vẫn không thể hòa được với chúng bạn, thậm chí có khi còn thoái lùi trong các hoạt động tương tác và có khi còn bộc lộ ra những phản ứng rất khó lường về hành vi và cảm xúc. Thì đến lúc đó, PH mới rút kinh nghiệm khá muộn màng trong việc định hướng cho con.

    Có một vài phụ huynh đã tâm sự – Giá như khi cháu còn nhỏ, tôi biết tập trung cho cháu những kỹ năng cá nhân thiết yếu, biết tự phục vụ bản thân, biết cùng làm việc nhà với mẹ, thì đến bây giờ cho dù cháu còn kém cỏi về văn hóa, nhưng cũng không khiến cho bố mẹ vẫn cứ phải phục vụ một cậu thiếu niên khôi ngô đĩnh đạc nhưng vụng về trong các các hoạt động cá nhân như một đứa trẻ lên ..ba ! Thế nhưng, nếu như có phép màu kéo lui lại thời gian – thì có lẽ Phụ huynh vẫn cứ tiếp tục xây ước mơ con mình có thể bước vào một ngôi trường, ngồi chung với các bạn …. Hơn là xắn tay lên để huấn luyện con những chuyện lặt vặt trong gia đình , vì đối với PH thì đó không phải là điều quan trọng càng không phải là mục tiêu của “chương trình can thiệp” cho trẻ hòa nhập!

    Những chuyện tự biết ăn uống, tắm rửa, quét dọn nhà cửa .. đâu phải là mục tiêu được đặt lên hàng ưu tiên ? Đã có bố mẹ và ô sin hay chính bố mẹ cũng là ô sin, phục vụ con tận răng, chỉ yêu cầu là con phải biết học, biết đọc, viết, làm toán ..mà mục tiêu là phải vào tiểu học cho bằng được, rồi sau đó lên trung học ….Tuy không mong con vào Harvard nhưng ít ra thì cũng phải hết cấp Ba, vào cao đẳng mới may ra có thể sống được trong xã hội này – Trong khi ngoài xã hội hiện nay, không thiếu các bạn trẻ cũng chỉ vì giấc mơ Đại học mà đã trở thành cử nhân xe ôm – được mặc áo xanh, áo đỏ làm việc cho tập đoàn nước ngoài và đi đây đi đó suốt ngày trong thành phố !

    Đó là chưa nói đến những trường hợp đau lòng, khi đứa trẻ phải “cách ly xã hội bắt buộc” không phải trong 14 ngày – mà đằng đẵng từ năm này qua năm khác – không phải vì sợ dịch Covid – mà sợ nếu cho trẻ bước ra ngoài, đến trung tâm can thiệp thì mang tiếng mình là người thế nào mới có một đứa con như vậy ! Còn cho con đến trường bình thường thì ba bảy 21 ngày là đưa con về, vì bạn bè không chịu chơi, không chịu nhường nhịn nó, và cô giáo cũng không ưu tiên chăm sóc nó, và cũng không chiu đựng được những hành vi bất thường của con, dù đã có gủi gắm ? – Mình đủ điều kiện nuôi con ở nhà, thuê hai ba cô giáo đến dạy con, trang bị cho con đủ loại đồ chơi hàng hiệu, có cả osin riêng để phục vụ, thì cần gì phải cho nó đi can thiệp cho vất vả ? – Đứa trẻ ở nhà, như một con chim trong cái lồng son , cho dù chưa có khả năng tự giao tiếp, nhưng nếu được hướng dẫn bằng thực hành trong môi trường xã hội thì có thể đạt được những giao tiếp cơ bản. Đã không được tương tác với các cảm xúc tích cực trong các hoạt động vui chơi với GV, với các trẻ khác , trẻ sẽ như một miếng bọt biển, hút tất cả những cảm xúc tiêu cực chung quanh trong cái “ lồng son vĩ đại” đó – Bữa nào bố mẹ vui vẻ, thoải mái thì con cũng bớt lo lắng, căng thẳng. Thế nhưng, cuộc sống gia đình thì làm sao tránh khỏi những lúc “cơm không lành, canh không ngọt” hay có khi , bố mẹ mang những áp lực, căng thẳng và phiền muộn từ cơ quan, công ty về nhà với một tinh thần mệt mỏi, khó chịu… Thì các cảm xúc đó sẽ lan tỏa trong gia đình, và đứa trẻ lãnh đủ mà bố mẹ không hề biết !

    Đã có những trường hợp, một bạn VIP đi học vui vẻ, nhưng một hôm đến trường thì khóc la , cô giáo không thể dỗ dành. Khi hỏi ra thì hôm trước, bố mẹ cãi nhau làm cho trẻ hoảng sợ, nhưng trẻ không phản ứng ngay, mà đến hôm sau khi đến trường trẻ mới bộc lộ ra . Cũng có trường hợp, trẻ đang vui vẻ học ở nhà , thế rồi vào một ngày đẹp trời, khi cô giáo đến can thiệp như thường lệ, thì trẻ bùng nổ những hành vi tiêu cực, có khi la hét không sao kiểm soát được, mặc dù bình thường tre rất nghe lời cô. Đó chính là dấu hiệu cho thấy trẻ đã bị “nhiễm” sự lo lắng căng thẳng ngay tại gia đình minh, và chỉ có những hoạt động bên ngoài môi trường gia đình , trong một thời gian mới có khả năng “điều trị”, chứ không phải một vài buổi đi chơi, du lịch với gia đình là đã giải quyết được vấn đề.

    Có thể nói, một bạn nhỏ có tình trạng tự kỷ nếu có được bố mẹ chấp nhận tình trạng của con, thống nhất với nhau trong việc can thiệp, coi trọng những phát triển về cảm xúc, đầu tư cho con nhận biết những kỹ năng cá nhân thiết yếu và thực tế trong cuộc sống hàng ngày, trước khi đặt ra mục tiêu biết đọc biết viết để đi học lớp một. Thì đó là một niềm vui cho các bạn ấy , chính niềm vui được là chính mình đó sẽ tạo niềm vui cho bố mẹ khi trẻ đã lớn lên, cho dù khả năng văn hóa có hạn chế, nhưng các kỹ năng cá nhân và khả năng tương tác xã hội đạt được những kết quả tốt, thì nó có thể giúp cho trẻ không phải là “hòa nhập” mà là biết “thích nghi “ với môi trường xung quanh, để từ đó – có một cuộc sống ổn định với tình trạng tự kỷ của mình.

    Tại sao lại với tình trạng tự kỷ ? bởi vì cho đế nay, người ta vẫn phải chấp nhận là tình trạng rối loạn Phát triển lan tỏa – một tên gọi khác của chứng Tự kỷ , là một rối loạn không thể chữa lành ! Hãy thử hỏi phu huynh của các trẻ lớn – dù có can thiệp tốt đến đâu, thì khả năng thích nghi, linh hoạt với cuộc sống vẫn còn những hạn chế – các em không thể cư xử một cách hoàn toàn như một người bình thường – vì thể, trẻ tự kỷ khi lớn lên sẽ là người tự kỷ ! Chỉ có điều khác biệt là nếu được đầu tư về mặt cảm xúc – thì đó sẽ là một đứa trẻ tự kỷ thoải mái, vui vẻ và khi lớn lên sẽ là một người tự kỷ hạnh phúc . Đó không phải là mục đích của giáo dục hay sao ? Ngay cả một người bình thường, nếu thiếu kỹ năng sống cho dù có được giáo dục đầy đủ, thậm chí bằng cấp đầy người, cũng vẫn có những căng thẳng không thích nghi được với cuộc sống – có thể đi đến trầm cảm hay suy nhược thần kinh – rối loạn cảm xúc hưng trầm cảm – mà nhiều người gọi đó là “tự kỷ” – Trong khi đó, chính các trẻ Tự kỷ “chính hiệu” thì lại bị ép vào một cái khuôn – để phải bước chân vào ngưỡng cửa nhà trường đánh vật với chữ và nghĩa, với một “hy vọng hão huyền” của bố mẹ là biết đâu – nhờ môi trường bình thường xung quanh trẻ, các em sẽ “dần dần hồi phục” các em sẽ chơi với trẻ bình thường để trở nên bình thường – Điều đó có thể đúng với các trẻ không phải là tự kỷ nhưng bị “dán cho cái nhãn Tự kỷ” – điều đó có thể đạt đươc trong một số lĩnh vực nào đó. Nhưng có thể nói rằng, dù như thế nào thì trẻ Đặc biệt ( bao gồm Tự kỷ – tăng động kém chú ý và Chậm phát Triển ) vẫn không thể có khả năng “ quản lý cuộc đời” – Các em có thể không còn các vấn đề về ngôn ngữ, giao tiếp, hành vi … Thậm chí các em có thể là HS giỏi toán, giỏi tin học . Nhưng các em vẫn khó có thể có khả năng đối phó với những “ tráo trở” hay sự phức tạp về ứng xử trong cuộc sống đời thường – Các em luôn là những người “ thật như đếm” không hề biết nói dối mà không chớp mắt – không bao giơ là những kẻ “nói vậy mà không phải vậy” hay nói một đằng làm một nẻo ! Nhưng cũng chính vì điều đó, mà các em rất kém cỏi trong khả năng thích nghi với cuộc sống trong xã hội của những người “bình thường” .

    Là bố mẹ, ai cũng mong con có cuộc sống hạnh phúc, an lành và có khả năng tự lo cho bản thân, vì vậy thay vì cứ mải miết chạy theo hy vọng “ hòa nhập” mà đem con đi “ chữa trị” với đủ kiểu can thiệp trên đời để mong con “trở lại bình thường” hay có khi lại xây cho mình cái ảo tưởng là con đang trở nên bình thường với những tiến bộ trong việc học, mà không để ý đến những cảm xúc tiêu cực của con trước áp lực của các phương pháp can thiệp nghiêm nhặt, mà phụ huynh quyết tâm đạt cho bằng được!

    Phụ huynh cần thấy rằng, niềm vui mà con mong muốn, không ở đâu xa, đó chính là những cảm xúc tích cực mà mình dành cho đứa con yêu dấu ! Tuy nhiên điều nguy hiểm ở đây là đừng bao giờ phụ huynh “áp đặt và chiều chuộng” đứa con đặc biệt của mình ! Chiều chuộng là sự bao bọc, làm thay, đáp ứng mọi yêu cầu của trẻ kể cả các yêu cầu có phần quá đáng, vì nó là một đứa trẻ đáng thương ! nên “thôi kệ” , nhưng còn áp đặt thì sao? Chính các hình thức kỷ luật cứng nhắc trong kỹ thuật can thiệp cho trẻ là sự áp đặt, chính việc bắt trẻ bằng mọi cách phải quy phục mình, dù là để tập cho tre nói hay dạy cho trẻ học cũng là sự áp đặt. Thậm chí, nếu như trẻ không thể hay chưa thể bước vào ngôi trường, mà mình cứ nhất quyết phải “nhét” cho bằng được đứa con của mình vào vì nó đã nói được, đã viết được, làm toán được, biết trả lời, biết đặt câu hỏi … như một trẻ bình thường thì tại sao không cho nó đi hòa nhập ? Thậm chí là buổi sáng đi hòa nhập, buổi chiều đi can thiệp ! Buổi tối về mẹ “rèn con” ! Đó cũng là sự áp đặt – và một sự áp đặt tệ hại, chứ đừng cho rằng đó là một biện pháp hiệu quả.

    Phải chăng chỉ có con đường hòa nhập, chỉ có con đường đến trường, khoác cho bằng được bộ đồng phục tiểu học, trung học với phù hiệu của trường ABC nào đó mới mục đích của đời con ? Không cho đi học, không có cái chữ lận lưng, làm sao con có thể tự sống được sau này ? Thực ra, không phải là con chữ mà là những kỹ năng cá nhân, sự khéo léo trong một lĩnh vực nào đó mới sẽ là điều giúp con và quan trọng là niềm vui , sự thoải mái trong cuộc sống, khả năng quản lý cảm xúc của con mới là mục đích mà bố mẹ cần vạch ra và cùng con đạt đến . Chắc chắn là cho đến khi lớn, trẻ vẫn cần có người hỗ trợ trong việc quản lý và tổ chức cuộc sống ! Vì vậy, đừng để trẻ phải quá căng thẳng, lo lắng , khủng hoảng vì chính sự lo lắng, mệt mỏi của chúng ta. Những người lớn, những bậc cha mẹ của trẻ Đặc Biệt, đừng nên cố gắng “Dạy con trong hoang mang” mà hãy với con “ sống vui cùng tự kỷ” !

    CVTL Lê Khanh – TT GDĐB Diệp Quang An Giang.

     

  • Giáo dục đặc biệt tại Việt Nam:  Một số vấn đề còn tồn tại và giải pháp

    Giáo dục đặc biệt tại Việt Nam: Một số vấn đề còn tồn tại và giải pháp

    Tóm tắt: Tại Việt Nam hiện nay, ngành giáo dục đặc biệt đã có những thành tựu đáng kể, số lượng và chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật từng bước nâng cao. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế cần được sớm giải quyết như: chưa thống nhất về số liệu trẻ khuyết tật, Luật người khuyết tật còn một vài điểm bất cập, việc thực thi luật còn thiếu đồng bộ, công tác đào tạo nguồn nhân lực thực hiện còn hạn chế. Nhằm khắc phục những hạn chế đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp cụ thể, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật trong những năm tiếp theo.

    1. Đặt vấn đề

    Ngành giáo dục đặc biệt Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây đã đạt được những thành tựu đáng kể. Gần đây nhất, tác giả Nguyễn Đức Hữu – Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học- đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ hai dưới sự phối hợp thực hiện của Trường Đại học Wakayama và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Bài viết đã cung cấp cho người đọc những thông tin cơ bản, đầy đủ và toàn diện về thực trạng giáo dục trẻ khuyết tật (GDTKT) ở Việt Nam và những định hướng phát triển trong giai đoạn từ 2015 đến 2020. Trong đó, có thể thấy những thành tựu nổi bật như: quy mô giáo dục ngày càng được mở rộng, hệ thống văn bản pháp lí nền tảng đã được ban hành, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho giáo dục đặc biệt tiếp tục được duy trì và phát triển, công tác quản lí giáo dục trẻ khuyết tật ngày càng hiệu quả và công tác xã hội hóa giáo dục cũng đã có nhiều kết quả, đã xác định được phương thức GDHN là phương thức giáo dục chủ yếu đối với người khuyết tật. Bên cạnh đó, bài viết cũng chỉ ra nhiều thách thức cho cho giáo dục đặc biệt ở Việt Nam như: nhận thức của xã hội về trẻ khuyết tật và tầm quan trọng của GDTKT chưa cao, hệ thống dịch vụ hỗ trợ chuyên môn còn yếu, chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế, đội ngũ làm việc trong các cơ sở giáo dục người khuyết tật và trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo về GDTKT còn thấp…

    Bài viết này sẽ tập trung phân tích một số những thách thức nổi bật của công tác GDTKT. Trong đó, có những thách thức đã được nêu trong báo cáo của tác giả Nguyễn Đức Hữu và một số vấn đề khác từ chính góc nhìn của tác giả bài viết này. Từ đó, đưa ra một số biện pháp thúc đẩy giáo dục đặc biệt trong thời gian tới.

    1. Những thách thức cần giải quyết của GDTKT Việt Nam
      • Chưa có số liệu chính xác về số lượng người khuyết tật và trẻ khuyết tật trong độ tuổi

    Giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam hiện nay chưa có được chương trình hành động mang tính chiến lược tổng thể và những giải pháp cụ thể, một trong những nguyên nhân chính là chưa có số liệu chính xác về số lượng người khuyết tật và số lượng trẻ khuyết tật trong độ tuổi từ 0 – 18 tuổi. Các thống kê của ngành Lao động thương binh và xã hội và ngành giáo dục có sự khác biệt nhau do tiêu chí xác định dạng khuyết tật, độ tuổi…

    Theo số liệu của TS Nguyễn Quốc Anh –  Giám đốc Trung tâm Thông tin và Tư liệu Dân số năm 2010, ước tính ở Việt Nam có khoảng 5,1 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 6% dân số, trong đó có 1,1 triệu khuyết tật nặng, chiếm 21,5% tổng số người khuyết tật. Tỷ lệ các dạng khuyết tật ước tính là: khuyết tật vận động – 29%, khuyết tật tâm thần – 17%, khuyết tật thị giác – 14%, khuyết tật thính giác – 9%, khuyết tật ngôn ngữ – 7%, khuyết tật trí tuệ – 7% và 17% các dạng tật khác. Ước tính này so với thực tế còn nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn, theo thống kê của Phòng Kế hoạch Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP.HCM năm 2010, toàn thành phố có 42.324 người khuyết tật trong khi nếu tính theo tỷ lệ bình quân 6% người khuyết tật trên tổng dân số thì con số này phải cao hơn rất nhiều. Theo đó, nếu dân số TPHCM là 7.382.287 người (theo số liệu điều tra của tổng cục thống kê ngày 1/4/2010), toàn thành phố vào thời điểm đó phải có khoảng 442.937 người khuyết tật. Điều này cho thấy số liệu trẻ khuyết tật tại TP.HCM theo thống kê của Sở Lao động Thương Binh và Xã Hội TP.HCM còn khác biệt rất nhiều so với thực tế.
    Ngược lại, nếu chỉ dựa trên số liệu ước tính thì cũng có thể sẽ đưa ra các chương trình hành động sai. Chẳng hạn, theo tỷ lệ ước tính của TS. Nguyễn Quốc Anh thì số lượng người mắc khuyết tật thị giác cao hơn rất nhiều so với các dạng khuyết tật khác. Và mặc dù, đây chỉ là tỷ lệ người khuyết tật theo các dạng tật chứ không phải theo độ tuổi, người ta vẫn suy ra rằng tỷ lệ trẻ khiếm thị nhiều hơn trẻ mắc các dạng khuyết tật khác, trong khi thực tế thì hoàn toàn ngược lại, các trường và chương trình giáo dục trẻ khiếm thị càng ngày càng giảm và các trường giáo dục chuyên biệt dành cho các dạng khuyết tật khác đặc biệt là trẻ khuyết tật trí tuệ và khuyết tật phát triển ngày càng tăng lên nhanh chóng.

    Việc thiếu tin cậy trong thống kê số liệu người khuyết tật nói chung và số liệu trẻ khuyết tật trong độ tuổi đi học nói riêng đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định các chính sách giáo dục cho trẻ khuyết tật nói riêng và người khuyết tật nói chung. Tất cả các hoạt động liên quan đến giáo dục trẻ khuyết tật đều có quan hệ mật thiết với việc xác định đúng số lượng trẻ khuyết tật, loại và mức độ khuyết tật của trẻ khuyết tật trong độ tuổi ở mỗi địa phương và trong cả nước. Con số này sẽ giúp ngành giáo dục và các ban ngành liên quan xác định được các loại hình và số lượng dịch vụ cần thiết cho người khuyết tật. Từ đó, hoạch định nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và tổ chức quản lý nhằm từng bước đáp ứng nhu cầu giáo dục đặc biệt của trẻ khuyết tật.

    • Luật người khuyết tật năm 2010 vẫn còn vài điểm chưa hợp lí

    Luật người khuyết tật ra đời năm 2010 khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với người khuyết tật và khẳng định chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về người khuyết tật là rất tiến bộ. Đây là cơ sở quan trọng để người khuyết tật được hưởng các quyền lợi và thực hiện trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, Luật người khuyết tật ở một vài điểm vẫn chưa được quy định và trình bày rõ ràng, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các chế độ hỗ trợ, trong đó có các chương trình hành động liên quan đến giáo dục.

    Chẳng hạn, điều 3 – khoản 1 của Luật có quy định về dạng khuyết tật bao gồm 6 dạng: (a) Khuyết tật vận động; (b) Khuyết tật nghe, nói; (c) Khuyết tật nhìn; (d) Khuyết tật thần kinh, tâm thần; (đ) Khuyết tật trí tuệ; (e) Khuyết tật khác nhưng ở khoản 3, điều 50 quy định về trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp, Luật chỉ nhấn mạnh việc thống nhất về ngôn ngữ kí hiệu và chữ nổi Braille cho người khuyết tật nghe, nói và nhìn mà không làm rõ các dạng khuyết tật còn lại thì phương tiện hỗ trợ học tập như thế nào. Chẳng hạn, đối với khuyết tật vận động, việc phục hồi chức năng, vật lí trị liệu và sử dụng các thiết bị hỗ trợ vận động là hết sức cần thiết nhưng những quy định cụ thể và đặc thù cho loại khuyết tật này vẫn chưa được làm rõ, trong khi, theo rất nhiều nguồn thống kê khác nhau, tỷ lệ người khuyết tật vận động luôn chiếm tỷ lệ cao trong các dạng khuyết tật ở Việt Nam.

    • Việc thực thi Luật người khuyết tật còn chậm, thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập

    Mặc dù Luật người khuyết tật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011, nhưng tốc độ thực thi rất chậm. Một số điều khoản quan trọng được người khuyết tật, gia đình người khuyết tật và xã hội đặc biệt quan tâm thì hầu như vẫn chưa được thực hiện một cách hệ thống và đồng bộ.

    Chẳng hạn, điều 28, khoản 2 quy định rõ GDHN là phương thức giáo dục chủ yếu đối với người khuyết tật. Điều 29, khoản 1 cũng nêu rõ – Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tham gia giáo dục người khuyết tật, nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng đáp ứng nhu cầu giáo dục người khuyết tật. Và điều 30 cũng nêu rõ về trách nhiệm của cơ sở giáo dục người khuyết tật bao gồm: (1) – Bảo đảm các điều kiện dạy và học phù hợp đối với người khuyết tật, không được từ chối tiếp nhận người khuyết tật nhập học trái với quy định của pháp luật và (2) Thực hiện việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất dạy và học chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật nhưng tình hình thực tế lại không diễn ra như vậy.

    Theo kết quả khảo sát năm 2011 của Nguyễn Thị Tường Vân trên 38 trường mầm non hòa nhập tại 9 quận/huyện của TP.HCM – địa phương được đánh giá là đang thực hiện tốt nhất công tác giáo dục trẻ khuyết tật so với cả nước thì hiện trạng giáo dục trẻ khuyết tật theo phương thức GDHN còn nhiều hạn chế. Có 6.8% giáo viên dạy hòa nhập ở bậc mầm non được đào tạo về giáo dục đặc biệt và 35.1% giáo viên đang dạy hòa nhập ở bậc mầm non được tham gia các lớp bồi dưỡng về GDHN ở các mức độ khác nhau từ 3-5 ngày. Có tới 51.9% giáo viên mầm non chưa được bồi dưỡng về GDHN nhưng đang tham gia dạy trẻ khuyết tật học hòa nhập. Số cán bộ quản lí được đào tạo/bồi dưỡng về giáo dục đặc biệt cũng rất ít, chỉ có 7.9% (3 người) có trình độ cử nhân giáo dục đặc biệt. Với thực tế như vậy thì có thể chưa đủ để đảm bảo các điều kiện để thực hiện GDHN cho học sinh khuyết tật như trong Luật quy định. Ở các trường chuyên biệt, số giáo viên đã qua đào tạo/bồi dưỡng chuyên ngành GDĐB đạt 67.73%, trong đó trình độ chuyên môn chủ yếu là cao đẳng GDĐB (65.9%) và 34.1% trình độ đại học.

    Một thực tế cũng khá bất cập đó là việc thiếu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ đối với giáo viên dạy trẻ khuyết tật. Hiện tại, các trường chuyên biệt vẫn phải áp dụng chuẩn giáo viên mầm non và phổ thông trong đánh giá năng lực giáo viên khuyết tật. Đây là một thực tế bất hợp lí, đi ngược lại với điều 50, khoản 1, mục đ của Luật người khuyết tật nêu rõ về “Quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, nhân viên chăm sóc người khuyết tật trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật”

    • Công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực cho GDTKT còn nhiều bất cập

    Hiện nay, đang có rất nhiều bất cập trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực GDTKT. Tại TP.HCM, địa phương được đánh giá là đơn vị đi đầu trong cả nước về chăm sóc và GDTKT, công tác này hiện cũng đang có nhiều vướng mắc. Bằng chứng là trong khi các nhà quản lí giáo dục kêu thiếu về nguồn nhân lực thực hiện GDHN thì sinh viên tốt nghiệp sư phạm giáo dục đặc biệt vẫn không thể tìm được một vị trí việc làm ở các trường mầm non và tiểu học công lập nơi có trẻ khuyết tật đang học hòa nhập. Mâu thuẫn này một phần do phần lớn sinh viên không có hộ khẩu thành phố nhưng nguyên nhân chính là do các trường công lập còn thiếu biên chế và vị trí việc làm cho giáo viên giáo dục đặc biệt. Ngoài ra, theo các nhà quản lí, còn có một nguyên nhân khác, đó là giáo viên giáo dục đặc biệt thiếu kiến thức và kỹ năng giáo dục nền tảng gắn với một bậc học nhất định. Chẳng hạn như, không thể dạy trẻ mầm non vì thiếu kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về giáo dục mầm non hay tương tự đối với các bậc học khác.

    Ngoài ra, trong khi các trường không thể tuyển được giáo viên giáo dục đặc biệt thì tỷ lệ giáo viên đứng lớp dạy trẻ khuyết tật hòa nhập được bồi dưỡng và đào tạo về giáo dục đặc biệt nhìn chung còn rất thấp, đáng phải suy ngẫm như đã được nêu ra trong phần 2.3.

    Những bất hợp lí này nếu không được khắc phục sớm sẽ là rào cản lớn cho việc triển khai thực hiện GDHN hiện nay nói riêng và việc đạt được các mục tiêu về giáo dục đặc biệt nói chung.

    1. Một số đề xuất nhằm tháo gỡ thực trạng hiện nay
      • Cung cấp số liệu chính xác về người khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật trong độ tuổi nói riêng

    Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội nên là đơn vị chủ trì trong việc điều tra tổng thể về người khuyết tật để có số liệu chính xác về người khuyết tật bao gồm: tổng số người khuyết tật và trẻ khuyết tật từ 0 – 18 tuổi trên phạm vi cả nước, tỷ lệ dạng khuyết tật, mức độ khuyết tật… Trên cơ sở số liệu này, lập kế hoạch chiến lược trong vòng từ 5- 10 năm và kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn, trong đó, xác định các nguồn lực cần huy động và nhiệm vụ của các ngành, đơn vị liên quan. Kế hoạch này cần có sự tham gia của các ngành và cơ quan chức năng liên quan như Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế. Từ đó, có thể ước tính được tổng chi phí cần cho việc thực hiện. Sau đó, căn cứ trên tổng kinh phí được duyệt chi, mà chọn các lĩnh vực, chương trình hành động ần ưu tiên thực hiện trước. Có như thế mới đảm bảo việc quy hoạch toàn diện cho GDTKT, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải, chồng chéo, kém hiệu quả, trong khi kinh phí chỉ có hạn.

    3.2. Bổ sung, điều chỉnh Luật người khuyết tật

    Khi thích hợp, Luật người khuyết tật nên được bổ sung chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam và quốc tế. Việc định danh thêm một số loại khuyết tật trong Luật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thống kê số liệu về người khuyết tật, các chế độ chính sách hỗ trợ và quan trọng hơn hết là việc đạt quyền được hưởng giáo dục đặc biệt của tất cả những người khuyết tật. Hiện nay, khuyết tật học tập, trẻ rối loạn phổ tự kỉ, mù – điếc và đa tật là những dạng khuyết tật được xác định là có những đặc điểm riêng biệt cần đến những chương trình và các dịch vụ giáo dục đặc thù. Vì thế, việc định danh những dạng khuyết tật này trong luật sẽ là nền tảng cho những chương trình giáo dục tương ứng có chất lượng. Hiện nay, đạo luật khuyết tật ở Mỹ đã dịnh danh 13 loại khuyết tật cụ thể. Đây là một nguồn để tham khảo cho việc bổ sung, điều chỉnh của Luật người khuyết tật Việt Nam.

    • Tăng cường các biện pháp nhằm thúc đẩy GDHN cho trẻ khuyết tật

    Bộ GD&ĐT cần có các chỉ thị cụ thể, toàn diện và kịp thời về quy trình thực hiện GDHN, đặc biệt nên sớm nghiên cứu ban hành chuẩn nghề nghiệp giáo viên giáo dục đặc biệt, có quy định rõ ràng về vị trí việc làm của giáo viên giáo dục đặc biệt, sớm kiện toàn bộ máy quản lí giáo dục đặc biệt, sớm quy định về việc đưa học phần GDHN vào chương trình đào tạo của tất cả các ngành sư phạm của các trường sư phạm trong cả nước, đào tạo giáo viên GDHN theo bậc học và chuẩn bị các điều kiện thiết yếu khác cho các Trường hòa nhập và Trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN.

    ThS. Hoàng Thị Nga
    Khoa GDĐB,  trường ĐHSP TP.Hồ Chí Minh

    Tài liệu tham khảo

    Nguyễn Quốc Anh (2013), thực trạng người khuyết tật và kết quả thực hiện chăm sóc người khuyết tật,
    Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (6/2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, NXB Thống kê Hà Nội,
    Nguyễn Thị Tường Vân (2013), Công tác quản lí đội ngũ giáo viên mầm non dạy trẻ khuyết tật hòa nhập tại Thành phố Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Giáo dục đặc biệt – Hướng tới tương lai, NXB trường ĐHSP TP.HCM, trang 76-89
    Luật người khuyết tật (2010), Quốc hội Số: 51/2010/QH12.
    http://idea.ed.gov/explore/view/p/,root,regs,300,A,300%252E8,c,

  • THẾ NÀO LÀ MỘT CƠ SỞ  CAN THIỆP TỐT ?

    THẾ NÀO LÀ MỘT CƠ SỞ  CAN THIỆP TỐT ?

    Sau khi đã phát hiện con có vấn đề về ngôn ngữ, giao tiếp, hành vi thì bố mẹ thường phân vân việc Test ( đánh giá ) trẻ . Đánh giá được xem là bước đầu cho việc can thiệp , nó bao gồm hai bước :

    Đánh giá sàng lọc : Ở bước này, thì hầu như đa phần phụ huynh hay giáo viên, hoặc một nhân viên nào có hiểu biết về các dấu hiệu của tình trạng rối loạn phát triển ( Bao gồm Tự kỷ, tăng động kém chú ý và chậm phát triển trí tuệ ) đều có thể dùng các dấu hiệu sàng lọc để phát hiện tình trạng tự kỷ bằng bảng sàng lọc M- Chat. Hoạt động này  không quá khó , miễn là chúng ta biết rõ các dấu hiệu quan trọng để nhận biết, chứ không phải là mới chỉ có vài dấu hiệu như chậm nói, hay xoay tròn, đi nhón gót, không tương tác mắt … là đã dán luôn cho cái mác tự kỷ .  Nhưng có một thực tế là không chỉ có phụ huynh là còn mơ hồ về tình trạng của con mình, mà ngay cả một số nhà chuyên môn, hay giáo viên đặc biệt can thiệp trẻ tại các cơ sở, vẫn còn nhiều người không thể hay không dám đưa ra kết luận, dù chỉ mới ở bước sàng lọc là trẻ có tự kỷ, có tăng động hay có chậm phát triển hay không ? Dù điều đó được xem là sự hiểu biết tối thiểu để có thể là 1 giáo viên can thiệp cho trẻ chứ không nói là 1 chuyên viên .

    Đánh giá mức độ : Sau bước sàng lọc, thì đối với phần lớn các chuyên viên, họ đều có thể đưa ra những đánh giá về mức độ nặng , nhẹ hay trung bình của trẻ để từ đó , có những định hướng cho trẻ trong việc xây dựng kế hoạch can thiệp ! Tuy nhiên cũng không thiếu các chuyên viên, giáo viên hay nhân viên Y tế, Tâm lý, Giáo dục – đặc biệt là ở các bệnh viện và các trung tâm có chức năng can thiệp cho trẻ, là họ ít khi nào có những nhận định đúng với tình trạng của trẻ, mà thông thường là sẽ dùng những thuật ngữ mơ hồ hay hiểu sao cũng được – cái thuật ngữ mà các Y bác sĩ hay dùng là cụm từ : Theo dõi tự kỷ  – nó hàm ý là có dấu hiệu tự kỷ đó nhưng chưa dám xác định – cứ đem trẻ về, mang đi can thiệp cho yên tâm, còn ở mức độ nào thì ..biết chết liền !  Cái cụm từ khác mà các chuyên viên hay dùng là có dấu hiệu, hay có nét tự kỷ , có yếu tố tăng động … điều này thì không sai nhưng lại không xác định là trẻ tự kỷ có yếu tố tăng động hay trẻ tăng động có yếu tố tự kỷ ! Mới nghe qua thì thấy cũng thế, nhưng đi vào can thiệp thì sẽ thấy khác nhau ! Nếu là trẻ tự kỷ có yếu tố tăng động thì vấn đề chính của trẻ là khó khăn về giao tiếp và đó là mục tiêu chính yếu. Còn nếu là trẻ tăng động có yếu tố tự kỷ thì vấn đề lại nằm ở hành vi, và giảm thiểu hành vi tăng động sẽ là mục tiêu chính. Mọi thứ phải rõ ràng ở bước này.

    Vì vây, việc đánh giá mức độ thường dễ bị bỏ qua , và điều đó sẽ gây khó khăn cho những bước kế tiếp trong tiến trình can thiệp ! Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước khởi đầu. Bước tiếp theo là khi phụ huynh muốn tìm cho con mình một cơ sở can thiệp tốt, có chất lượng, giáo viên có tâm, có tài, cơ sở vật chất cũng phải “vip” một chút. Đây mới là một cuộc “ Long trang hổ đấu” quyết liệt giữa các đơn vị !

    Trước hết, đó là sự đấu tranh ngay tại gia đình – bố và mẹ sẽ mâu thuẫn nhau về việc đưa con đi can thiệp hay chưa cần, vì có khi ngay cả khi đã có những minh chứng rõ ràng về tình trạng của con – Đa phần là người bố vẫn không chấp nhận, họ tự an ủi mình là con chỉ chậm nói, chỉ nghịch ngợm quá mức, chỉ không chịu nghe lời và chỉ có vài hành vi không giống ai thôi. Ngay cả với người mẹ, cũng không dễ để có được sự chấp nhận về tình trạng và mức độ của con mình. Đến khi đưa con đi can thiệp, ngoại trừ các yếu tố như ở địa phương mình không có trường, trung tâm  hay cơ sở can thiệp… thì các phụ huynh đành phải tìm các giáo viên đến can thiệp tại nhà hay đưa trẻ đến nhà cô với một vài trẻ khác.  Còn phần lớn sẽ hỏi ý kiến các chuyên gia, hay đơn giản hơn là đưa mong muốn can thiệp của con lên FB, và thế là một đống các thông tin về một đơn vị nào đó được gửi đến PH. Cũng có PH tự mình lên mạng, tìm cơ sở cho con và bắt đầu rơi vào một môi trường  “thập diện mai phục” của đủ mọi hình thức quảng cáo , mà chỉ đến khi cọ xát thực tế, mất đứt vài tháng, thậm chí cả năm cho con đi can thiệp mới nhận ra là những lời có cánh không phải là thực chất của đơn vị đó. Vậy làm thế nào để tìm cho mình một đơn vị tốt ? Ngoài yếu tố gần nhà ( đôi khi không có sự chọn lựa ) thì các yếu tố còn lại là gì ?

    • Cơ sở vật chất hoành tráng hay ít ra thì cũng có các phòng can thiệp cá nhân, can thiệp nhóm, phòng ngôn ngữ, phòng tâm vận động. Thực chất, đây là vấn đề “ phải thông cảm”  nhiều nhất , bởi vì ngoài những hạn chế về diện tích ( ở các TP lớn ) hạn chế về vốn đầu tư , thì cũng không thiếu các cơ sở mà người phụ trách hay chủ cơ sở không biết đầu tư như thế nào luôn ! Họ nghĩ đơn giản là cũng giống như một cái trường mẫu giáo với các dụng cụ học tập ( bàn ghế tủ kệ … ) và đồ chơi ( phần lớn là mua ở chợ hay các đồ chơi của trẻ mẫu giáo ) – có nhiều người bỏ hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu để trang bị nhưng nếu gọi là có thể dùng được cho trẻ đặc biệt thì chắc phải bỏ đi ít nhất 50% ! và bổ sung 50% các học cụ chuyên biệt ! Nhưng trang bị thế nào là phù hợp với trẻ đặc biệt ?đó cũng là một vấn đề đau đầu mà không phải chỉ có tiền nhiều là đủ, mà còn cần có sự hiểu biết thực sự về lãnh vực giáo dục đặc biệt mới có thể có các trang bị phù hợp và phát huy được hiệu quả trong việc giúp trẻ phát triển về các mặt.  Có một cái chuẩn mà nhiều cơ sở tự đặt ra, đó là trang bị cho mình một phòng gọi là phòng Tâm Vận Động ! Khoan nói tới việc đã có rất nhiều hiểu lầm về thuật ngữ hay phương pháp Tâm vận động – mà việc bỏ ra vài chục triệu, thậm chí gần trăm triệu để trang bị  ( có những công ty chuyên cung cấp trọn gói một phòng Tâm vận động ) thì cũng chưa chắc đó có đúng là công cụ tâm vận động hay không ? và cho dù có công cụ đầy đủ, mà giáo viên có không biết vận dụng đúng các nguyên tắc của Tâm vận động thì cũng như không.
    • Vấn đề thứ hai là điều quan trọng để đánh giá một cơ sở – đó là kế hoạch can thiệp ! Đây là mấu chốt để xem xét các GV của cơ sở đó có đủ năng can thiệp cho trẻ hay không ? Bởi vì ai cũng biết, trẻ đặc biệt nhất là trẻ Tự Kỷ thì không có trẻ nào giống trẻ nào – Một chương trình can thiệp về mặt lý thuyết có thể giống nhau, các bài tập cũng có thể như nhau, Nhưng đến khi vận dụng vào trẻ là khác nhau – có thể áp dụng nguyên tắc này cho trẻ, nhưng trẻ khác thì lại là nguyên tắc khác cần chú ý nhiều hơn. Người GV giỏi là người GV biết vận dụng 1 cách linh hoạt các lý thuyết và bài tập dành cho học trò của mình. Vì thế, dù cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế, dù mức độ của trẻ chưa thể được xác định ngay trong thời gian đầu, thì ở một cơ sở can thiệp tốt, GV hay người phụ trách chuyên môn phải đưa ra đươc định hướng, kế hoạch hàng tuần, hàng tháng và mục tiêu can thiệp cho trẻ . GV đó phải trao đổi, trình bầy với phụ huynh về những biện pháp ( bất kỳ theo phương pháp nào ) về mục tiêu trong tháng thứ 1, tháng thứ 2, tháng thứ 3 . Nếu chi tiết hơn thì sau 1 – 2 tháng gọi là là quen với trẻ, thì phải có kế hoạch hàng tuần. Muốn có điều này thì GV phải xác định được mức độ nặng hay nhẹ hay trung bình của trẻ mà mình phụ trách.  Nếu sau 3 tháng mà GV chưa đưa ra được các định hướng can thiệp, chưa đánh giá được tình trạng và mức độ của trẻ thì PH cần xem xét lại việc gửi con tại đây !
    • Vấn đề thứ ba tuy rất khó xác định, nhưng lại là điều không thể thiếu trong lãnh vực giáo dục đặc biệt ! Đó chính là khả năng biết chơi đùa với trẻ và tình yêu thương mà giáo viên dành cho các học sinh của mình . Một cơ sở vật chất thiếu thốn, có thể chấp nhận được, một kế hoạch can thiệp chưa thực sự rõ ràng, đầy đủ… cũng có thể du di để dần dần người GV sẽ hoàn thiện . Nhưng một giáo viên mà không biết chơi đùa với con, lúc nào cũng thờ ơ, hay nghiêm nghị ( cho trẻ sợ thì nói nó mới nghe ) hay một Gv không có tình yêu thương với các “ đứa con tinh thần” của mình. Đến dạy trẻ mà như đi làm công chức, trong giờ can thiệp thì lo chat chit, lướt FB hơn là lắng nghe để thấu cảm với những hành vi kỳ cục của trẻ ! Thích quát trẻ hơn là cười đùa, thích buộc trẻ phải làm theo các yêu cầu để nói, để giao tiếp hơn là mời gọi trẻ cùng ngồi, cùng ngả ngớn lăn lê bò toài . Giờ can thiệp, cô – trò đối điện gần 1 giờ đồng hồ, chỉ là những động tác, lời nói lập đi lập lại, được lập trình sẵn của GV để buộc cho trẻ phải nói cho bằng được… Thì đó chính là tiêu chí đánh giá tốt nhất mà phụ huynh có thể thấy được và nếu không có các yếu tố này thì cho dù mọi thứ khác là tốt, cơ sở vật chất ngon lành thì cũng nên nói lời tạm biệt.

    Cuối cùng , thế nào là một chương trình can thiệp tốt nhất mà các cơ sở có thể đem lại cho trẻ đặc biệt ! Đó chính là một chương trình phụ huynh hoàn toàn có thể nắm bắt và có thể phối hợp một cách tốt nhất tại gia đình. Cơ sở nào có đủ khả năng thuyết phục, dụ dỗ, lôi kéo và bắt buộc..không phải dành cho trẻ mà là dành cho phụ huynh để có thể hợp tác với mình, đó mới là một cơ sở tốt nhất.  Nếu một cơ sở không đưa được chính phụ huynh của trẻ vào chương trình can thiệp bằng việc tác động, hướng dẫn, trao đổi, chia sẻ… để cho các ông bố, bà mẹ biết cách về nhà dành thời gian cho con, ít nhất mỗi ngày 1 giờ ngồi chơi với con . Nếu cơ sở không chia sẻ các thông tin về cách dạy trẻ, để yêu cầu bố mẹ cùng tham gia tác động mà lại yêu cầu bố mẹ không cần phải quan tâm đến việc cơ sở đang dạy trẻ các gì, đang đặt ra mục tiêu gì và thậm chí tuyên bố ( điều phụ huynh rất thích nghe ) là can thiệp ở cơ sở là đủ rồi, bố mẹ chỉ cần đóng tiền hàng tháng mà không cần phải làm gì cho con thêm ở nhà – Thì đó chính là một cơ sở giáo dục tệ nhất mà PH nên tránh xa, hơn là bị chinh phục bởi các phòng học trải thảm, gắn máy lạnh và không yêu cầu gì về phía mình.   Còn chuyện tuyên bố là 3 tháng hay 6 tháng thì con sẽ nói được là một điều tối kỵ ( nhưng nhiều PH cũng..thích nghe lắm ) Điều này khác hẳn với các chương trình giáo dục dành cho trẻ bình thường, bởi vì các em là VIP mà . Đã là VIP thì phải luôn luôn được tôn trọng, yêu thương, thấu hiểu , cảm thông và ..chấp nhận ! Đến đây thì các PH đã có thể chọn được cho mình và con một đơn vị rồi chứ ? Nếu chưa – xin giới thiệu 1 cơ sở tốt nhất của mọi địa phương, mọi thời đại : Cơ sở đó có tên là Gia Đình !

    Lê Khanh

     

  • CHỈ CÓ THỂ LÀ TỰ KỶ !

    CHỈ CÓ THỂ LÀ TỰ KỶ !

    Thế là ngày 2/4 đã qua đi – những hoạt động rộn ràng trong ngày nhận thức về chứng Tự Kỷ đã trôi theo dòng đời – để rồi những ưu tư, những câu hỏi “rập khuôn” về tự kỷ lại trở lại – Những lo âu, muộn phiền, khủng hoảng về các vấn đề “muôn thủa” của Vip lại “tái hiện”. Sau những bích chương biểu ngữ : Tự kỷ tôi đã hiểu –giờ đây lại tiếp tục nhiều điều …chưa hiểu !
    Trước hết – Tại sao chứng Tự Kỷ luôn là ưu tiên hàng đầu cho việc xác định dựa trên các biểu hiện của trẻ mà không phải các rối loạn khác ? Bố mẹ và các nhà chuyên môn chỉ săm soi các dấu hiệu : Chậm nói, nói linh tinh, nhại lời, không biết trả lời … rồi không biết chỉ tay, không giao tiếp mắt, không kiểm soát được vận động, đi nhón gót, xoay vòng tròn… để xem có bị Tự kỷ hay không ? và nếu được chẩn đoán là tăng động hay chậm phát triển thì sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
    Tại sao Tự kỷ lại lấy đi bao nhiêu là nước mắt của bố mẹ ? vì họ nghĩ rằng tự kỷ không chữa được , và nếu không nói được, không giao tiếp được hay không đáp ứng được các yêu cầu của nhà trường, không biết chơi với bạn … thì sẽ không đi học được, không thể “ hòa nhập xã hội” như một trẻ bình thường. Mà nếu không học được thì sẽ không thể phát triển, không tốt nghiệp cấp 3 là không có tương lai. Bởi vì Học vấn là con đường duy nhất để vào đời, để tồn tại và con mình phải đi vào con đường ấy, không còn sự lựa chọn nào khác ! vì thế bị cái gì cũng được – trừ Tự kỷ ! Tự kỷ đã trở thành sự ám ảnh nặng nề nhất.
    Từ suy nghĩ ấy, hơn chục năm nay ở các phụ huynh có con “chớm tự kỷ” ( sic ) cho đến “ tự kỷ điển hình” chức năng thấp – chức năng cao …. Tất cả đều mong là sẽ chiến thắng chứng tự kỷ, trở thành chiến binh vượt qua Tự kỷ để đường hoàng bước vào ngôi thánh đường mang tên Nhà trường. Dù thực tế có hàng chục ngàn cử nhân từ đó mà ra, đang thất nghiệp vì không đủ kiến thức, kỹ năng để làm việc sau khi đã rèn dũa 4 – 5 năm ở các trường Đại Học với đủ các ngành nghề. Đó là các học sinh bình thường, thậm chí là thông minh, mà còn chưa biết tương lai ra sao sau 12 năm học chữ và 4 năm học các trường Đại học … Còn trẻ Tự Kỷ thì rõ ràng là khả năng học hết cấp tiểu học thôi cũng đã không dám chắc … nhưng vẫn chỉ một con đường là phải khỏi “bệnh” để đi học cái đã, rồi sau này nếu không xong sẽ..tính tiếp.
    Thế là Trị liệu kiểu nào đây các bác ? Từ cạo gió rầm rộ một thời, rồi châm cứu, thở Oxy cao áp cho đến bây giờ vẫn còn lăn tăn không biết là cấy tế bào gốc có trị được hết Tự kỷ hay không ? – Nhưng ở các nước tiên tiến, các nhà khoa học tại sao không đưa các biện pháp điều trị là hoạt động ưu tiên như mọi căn bệnh khác ? Tại sao họ không nói gì về Cấy tế bào gốc trong khi đây là một liệu pháp có thể điều trị được nhiều loại bệnh thực thể khác nhau và cả trong lĩnh vực giải phẫu thẩm mỹ. Nhưng, vấn đề mấu chốt là phương pháp này chưa có một nghiên cứu có chứng cớ khoa học nào được công bố là có thể điều trị được chứng tự kỷ , mà chỉ là những thông tin mơ hồ theo kiểu, đã cho đi châm cứu, đã cho đi cấy tế bào gốc kết hợp với can thiệp giáo dục và trẻ có những tiến bộ nhất định. Đây không phải là một chứng cớ vì chỉ là những nhận định chủ quan của một vài trường hợp “ may thầy phước chủ” theo kiểu suy diễn là Châm cứu hay cấy tế bào gốc đã chữa được một số bệnh về thần kinh, thì chắc có thể “ chữa được bệnh Tự Kỷ” . Điều đó đánh đúng vào cái mong muốn mãnh liệt của các PH là mong sao con hết “bệnh”
    ! Nhưng tại sao lại cứ muốn xem Tự kỷ là một chứng bệnh ? Bởi vì có là bệnh thì mới hy vọng chữa được, còn nếu xem đó là một tình trạng bẩm sinh thì không chữa được, mà chỉ có thể “giáo dục, can thiệp, uốn nắn, rèn luyện” với rất nhiều phương pháp khác nhau mất nhiều thời gian … và hiệu quả thì còn tùy vào rất nhiều yếu tố khác nhau .
    Với các nhà giáo dục có lương tâm, trách nhiệm và lòng tự trọng, thì ít ai dám tuyên bố là tôi, hay phương pháp của tôi sẽ can thiệp cho trẻ Tự kỷ thoát khỏi tình trạng này, để hòa nhập với cộng đồng như một trẻ bình thường. Với những trẻ đã xác định là tự kỷ, thì họ chỉ có thể nói rằng, sẽ can thiệp cho trẻ phát triển được các kỹ năng đến một mức độ nào đó, với sự hợp tác tích cực của gia đình – Sẽ có những trẻ đi học được, hay chỉ học được đến một cấp độ nào đó … Nhưng sẽ rất ít, hay không có trẻ nào có thể bình phục, hay phát triển được khả năng giao tiếp và thích nghi như một trẻ bình thường.
    Nhưng cũng có nhiều nhà chuyên môn, giám đốc các cơ sở can thiệp, dám mạnh miệng tuyên bố là chỉ 3 tháng, 6 tháng là trẻ nói được. Có thể họ nói đúng, trẻ sau một thời gian “can thiệp cá nhân” bằng thẻ tranh, bằng việc lập đi lập lại hàng trăm lần với giáo viên… trẻ có thể nói được những gì trẻ thấy và trẻ nghe. Nhưng trẻ vẫn không thể có tư duy logic và linh hoạt , biết đưa ra những câu hỏi về cảm xúc hay nói chuyện tay đôi thoải mái với trẻ khác ! Và như thế, đâu có thể gọi là “ thoát khỏi chứng tự kỷ” mà chắc chắn bố mẹ và trẻ sẽ phải sống chung với tự kỷ lâu dài còn các cơ sở đó thì ăn tiền trên mồ hôi và nước mắt của phụ huynh !
    Có nhiều người sau một thời gian can thiệp đã có thể khoe sự tiến bộ của con về một số lãnh vực, từ chuyện chỉ nói được từ đơn, rồi từ đôi, rồi một câu ngắn, rồi cả một câu dài. Từ chuyện chưa biết bơi, thấy nước là sợ đến bây giờ là huy chương vàng hội thao cho trẻ đặc biệt. Từ chuyện có thể biết làm các con toán đơn giản cho đến việc có thể giải phương trình … nhiều lắm, rất nhiều công sức đã bỏ ra, và rất nhiều trẻ tự kỷ nay đã bước vào tuổi thanh niên – Nhưng đã có bạn nào có thể tự mình tham gia vào một nhóm bạn trẻ, trao đổi cười đùa và có thể kiếm tiền bằng công việc kinh doanh tự chủ ? hay có thể làm một nhân viên đa năng cho một công ty bất kỳ nào đó và biết quản lý thu chi ? Xin đừng lấy một vài cá nhân nổi bật để xem đó là mẫu mực mà con mình sẽ phải đạt được thành tích như họ – Xin đừng xem chàng MC tài hoa Raun trong phương pháp Son Rise là một điển hình cho việc can thiệp bằng 1 phương pháp duy nhất để biến 1 đứa trẻ tự kỷ nặng trở thành một con người không chỉ là bình thường mà còn là một nhân tài trong việc truyền thông, quảng cáo một cách thuyết phục và còn là 1 huấn luyện viên. Có thể nói Raun là một trường hợp ngoại lệ, là một hiện tượng hiếm có. Hãy tự hỏi, trên trái đất nầy, hiện có bao nhiêu trẻ tự kỷ nhờ sự trị liệu nhiệm mầu nào đó ở gia đình mà lớn lên trở thành một chàng Raun hoàn hảo để cất tiếng nói hết sức tự hào rằng bản thân mình đã dứt nọc, chẳng còn chút vết tích tự kỷ thời con trẻ ? ( đó là nếu đúng Raun là trẻ Tự kỷ – vì đây vẫn còn là một nghi vấn ) .
    Vì vậy, con đường mà bố mẹ và trẻ Tự kỷ sẽ phải trải qua, đó là phải biết chấp nhận những hạn chế về giao tiếp, về ứng xử của cậu thiếu niên tự kỷ, mà thực ra thì ngay cả với một số người không hề bị Tự kỷ, cũng có những ứng xử hay ngôn ngữ không linh hoạt, kém khả năng giao tiếp và thích nghi có khi còn tệ hơn cả trẻ tự kỷ đã được can thiệp tốt mà vẫn có thể “ hòa nhập xã hội” không cần can thiệp sớm.
    Như vậy, phải chăng không cần can thiệp, chữa trị gì cả, mà cứ đeo cái nhãn trước ngực : Tôi Tự kỷ, xin đừng đánh (nhưng vẫn bị đánh tả tơi ! ) – Không, Chúng ta vẫn phải dạy tất cả mọi thứ cho một đứa trẻ tự kỷ, vẫn phải cố gắng can thiệp trong thời gian và khả năng cho phép. Nhưng phải phát hiện đúng và phải can thiệp phù hợp với khả năng của trẻ để tùy theo đó mà có một kế hoạch cá nhân, chứ không lấy các chương trình giáo dục mẫu giáo hay tiểu học mà áp vào cho trẻ. Chúng ta phải xác định được mục tiêu cao nhất cho trẻ, đó không phải chữa cho khỏi bệnh, đó không phải là bằng mọi giá cho trẻ vào được lớp một và bằng mọi giá phải cho trẻ học đến khờ người để đạt được cái mức tối đa có thể trong con đường học vấn.
    Mục tiêu cao nhất là giúp cho trẻ có thể vui sống, có được một năng lực bất kỳ trong một lĩnh vực nào đó mà có thể những khả năng có vẻ như kỳ dị của trẻ lại trở thành một lợi thế. Trẻ thích sự rập khuôn, lập đi lập lại… thì sẽ có những công việc đòi hỏi các thao tác rập khuôn, lập đi lập lại . Trẻ có trí nhớ chụp ảnh cực kỳ tốt, thì sẽ có những công việc yêu cầu phải ghi nhớ hình ảnh hay các công thức … Tóm lại, đó là tìm kiếm các cách thức tương tác và các hoạt động phù hợp với trẻ để có thể đáp ứng được các yêu cầu của công việc mà không đi ngược lại các các sở thích và khả năng khác thường ở trẻ.
    Thay vì phải cố gắng ép trẻ vào một cái khuôn mang tên là học đường – để yên nghỉ trong suy nghĩ là con mình đã “ hòa nhập” được một thời gian, và sau đó thì thực sự là khó khăn hay thậm chí là bế tắc khi trẻ không thể tiếp tục học lên cao và khi phải đi tìm một công việc cho cậu thiếu niên “có vẻ bình thường” này ! Bởi vì chắc chắn, cậu không thể là 1 ứng viên tiềm năng nếu so với các ứng viên bình thường khác, mà chỉ có thể được nhận với các tiêu chuẩn “nhân đạo” hay mang tiếng đi làm “cho vui” với rất nhiều sự nâng đỡ từ gia đình.
    Tìm kiếm việc làm cho trẻ Tự kỷ, rồi cũng sẽ rất khó khăn hay bế tắc giống như sự khó khăn và bế tắc của các phương pháp điều trị hay can thiệp uốn nắn hành vi cho trẻ hiện nay. Nó chỉ có tác động hay hiệu quả, khi cái nhìn và nhận thức về trẻ tự kỷ được thay đổi. Chúng ta phải giúp một người tự kỷ có thể sống trong xã hội với những hạn chế của chứng tự kỷ, chứ không buộc trẻ tự kỷ trở thành bình thường để bước vào xã hội với rất nhiều nỗ lực vượt quá khả năng của các em.
    Thay vì bỏ tiền triệu, thậm chí là tiền tỷ, để cố gắng tìm kiếm những phương pháp “chữa lành” thì hãy cùng nhau đầu tư cho các em một môi trường mà ở đó các em được yêu thương, được chấp nhận và tôn trọng thực sự. Các em được “chơi đùa và phát triển” trong niềm vui theo từng mức độ, tính cách và năng lực của mình, chứ không phải “lùa” các em vào những lớp can thiệp trong các căn nhà phố một cách nhốn nháo, ồn ào, ra rả những bài hát thiếu nhi để “luyện nói” để hy vọng “dập tắt các hành vi kỳ dị” hay các trường MG gọi là hổ trợ “hòa nhập” mà thực chất chỉ là một hình thức giữ trẻ để tập nói. Phụ huynh đừng mong chờ ở những lớp học với trang thiết bị đắt tiền mà ở đó giáo viên thích chơi với điện thoại hơn là chơi với các em, thích chat chit trên FB hơn là lăn lộn với các em. Đừng đi tìm các Trung tâm can thiệp được quảng cáo rùm beng với “xảo thuật truyền thông” về các phương pháp trị liệu “ tiên tiến – ngoại nhập” mà thực chất chỉ là những kỹ thuật để buộc trẻ phải “bật âm” hay buộc trẻ phải ép mình vào trong các “giờ can thiệp cá nhân” 1 -1 để biết tô mầu, đồ chữ và trả lời như robot các câu hỏi của giáo viên mà xem đó là sự tiến bộ.
    Chúng ta đấu tranh yêu cầu xã hội cấp cho con em mình một cái giấy chứng nhận “khuyết tật” để mỗi tháng có trợ cấp và “đường hoàng bước vào” một ngôi trường “bình thường” Nhưng các em vẫn bị kỳ thị, vẫn bị để sang một bên và vẫn phải có 1 giáo viên đi kèm để hỗ trợ hay đúng hơn là làm thay cho các em những hoạt động về học tập để cho bố mẹ một cảm giác “hòa nhập” nhưng rồi có thể một vài năm, sau khi được đẩy lên lớp 2, 3,4… thì đứa trẻ lại “lặng lẽ bước ra” vì thực sự là con vẫn nhập mà không hòa ! Điều đó sẽ không xẩy ra nếu lớp học đó, những trẻ em và người lớn xung quanh biết chấp nhận những hành vi được xem là kỳ dị, những hiểu biết được xem là yếu kém, nhưng các em sẽ có một năng lực vượt trội nào đó, đã được khám phá và vun bồi ngay từ nhỏ thay vì cứ chạy theo hết phương pháp trị liệu này đến kỹ thuật can thiệp khác để cố gắng bình thường hóa một điều bất thường và …bó tay!
    Chiều cuối tuần với nỗi nhớ ..
    LÊ KHANH   – Trung Tâm GDĐB DIỆP QUANG ( An Giang ) ..

     

  • CẢM XÚC NƠI CON

    CẢM XÚC NƠI CON

    Trong những năm đầu thời học cử nhân, Tôi đi tìm hiểu về cảm xúc dạy học. Tôi hồ hởi bao nhiêu cho những tích góp kiến thức và những điều vui để dồn vào dạy trẻ. Thế rồi tôi choáng trong sự ảo về những việc thao tác bất tuyệt một chiều ấy. Đối diện với tôi là những em bé hết sức ngây thơ với “cảm xúc cứng”. Tôi đã tập lại cách “hi hô” những trạng thái cảm xúc của chính mình.
    Khi dạy các bé Tự kỷ, tôi học được cân bằng cảm xúc, học cách lắng nghe chúng nhiều hơn để thấu hiểu mong muốn của chúng là gì? Tôi từng bước lần mò để là bạn tin cậy của các bé. Tôi biết cách hiệu chỉnh cảm xúc với chính tôi, biết chờ đợi sự đáp lại cảm xúc từ trẻ và những phút giây bên các bé là lúc mà tôi học cách quan sát cảm xúc nhiều nhất…
    Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cách trẻ thể hiện cảm xúc, thông qua cả lời nói và hành động như: cảm xúc mà trẻ học được từ cha mẹ, người chăm sóc hay giáo viên; do tính cách của trẻ; trẻ học được thông qua quan sát hay trải nghiệm; bầu khí đang tạo ra ở tại gia đình khiến căng thăng khác nhau mà gia đình và trẻ phải chịu….Các nhà tâm lý Pháp những năm cuối 90 của thế kỷ trước đã từng nhắc tới yếu tố tâm lý của các cha mẹ ảnh hưởng trực tiếp trong giáo dục cảm xúc cho trẻ rối loạn. Hay những nghiên cứu về liên kết mẹ – con, họ cũng nêu về những bà mẹ “băng giá” tác động trực tiếp tới phát triển tâm lý đứa trẻ,..vv..
    “Cảm xúc hay xúc cảm là một hình thức trải nghiệm cơ bản của con người về thái độ của chính mình đối với sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, với người khác và với bản thân. Sự hình thành cảm xúc là một điều kiện tất yếu của sự phát triển con người như là một nhân cách. Cảm xúc có nhiều loại: cảm xúc đạo đức, cảm xúc thẩm mỹ, cảm xúc trí tuệ… Một đặc trưng của cảm xúc là có tính đối cực: yêu và ghét, ưa thích và không ưa thích, xúc động và dửng dưng (https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3m_x%C3%BAc)
    Liệu chúng ta có thể phát triển các phương pháp hỗ trợ hiểu cảm xúc dành cho trẻ tự kỷ ở ngay tại nhà không?
    Câu trả lời là có. Bạn có thực sự muốn làm điều ấy hay không mà thôi. Chính chúng ta còn đang rối bời trong việc gọi tên cảm xúc, hay sự thấu hiểu cảm xúc. Mức độ ảnh hưởng của cảm xúc đối với quá trình nhận thức trong ASD ( Rối loạn phổ tự kỷ) là rất lớn. Làm thế nào để trẻ ASD có những trải nghiệm cảm xúc tốt? Câu hỏi đặt ra để nhấn thêm rằng: sự tôn trọng trẻ, chấp nhận và tạo sân chơi dành cho trẻ ASD còn xa lạ với nhiều cha mẹ của con. Thấu hiểu Tự kỷ là để biết chấp nhận và cùng các bé vượt qua những khó khăn về cảm xúc. Cha mẹ, hay người chăm sóc cần những khả năng tạo cho trẻ có cơ hội trong thông minh về cảm xúc.
    Có một số nghiên cứu chỉ dẫn về sự hỗ trợ phát triển cảm xúc của trẻ như Nhà tâm lý Gottman đưa ra 6 cách để cha mẹ “Huấn luyện cảm xúc” cho trẻ: 1. Lắng nghe thấu cảm: Hãy tập trung vào điều trẻ nói để hiểu điều trẻ đang cảm nhận, sau đó hãy chia sẻ với sự thấu hiểu; 2. Giúp trẻ đặt tên cảm xúc: Với sự hạn chế về từ vựng và sự hiểu biết sơ đẳng về nguyên nhân và hậu quả, trẻ thường gặp khó khăn khi diễn đạt điều đang cảm nhận; 3. Thừa nhận cảm xúc của trẻ ; 4. Chuyển tức giận thành công cụ để dạy; 5. Sử dụng xung đột để dạy kỹ năng giải quyết vấn đề :Luôn luôn đặt cho trẻ những giới hạn và hướng trẻ tới một giải pháp.; 6. Đánh giá vấn đề chứ không phê phán cá nhân
    Sự phát triển cảm xúc trong giáo dục Montessori là giúp trẻ cảm nhận được đầy đủ cảm xúc tích cực khi công việc hoàn thành và kết quả đạt được mãn nguyện. Thông qua giáo cụ, trẻ học cách cân bằng cảm xúc một cách chủ động qua cảm nhận về sự trải nghiệm.
    Để MỜI GỌI cảm xúc nơi con, với  kinh nghiệm cá nhân thì tôi hay áp dụng những điều nhỏ nhoi sau:
    1. ĐI BỘ NÓI VỀ CẢM XÚC. Chúng tôi lựa không gian  tự nhiên để chào đón những cảm xúc nơi bé. Tạo cho bé cảm nhận những tôn trọng về sự tự do nơi bé. Bé sẽ thể hiện những vui buồn, thoải mái, lạ quen,…và bé sẽ có những cơ hội trải nghiệm các tình huống khi đi thực tế.
    2. CHUYỂN HÓA CẢM XÚC. Từ cảm xúc mang “màu tối” sang màu sắc tươi sáng. Ví dụ như sợ con chó, bé Ốc Nam sẽ la hét, hoảng sợ,.. đây là lúc có thể chia sẻ để con có thể cảm nhận sự an toàn hiện diện ngay bên con là mẹ hay người trợ giúp. Gọi tên cảm xúc đó ra sau khi nhận diện được cảm xúc trong bé. Tạo bé cảm giác an toàn, trấn an, giúp bé vượt qua sợ hãi; Tập dần dần điều này. Và từ sợ hãi, không dám đi qua đoạn đường có nhà nuôi chó ấy kèm la lớn- đến dám đi qua nhưng có hét- rồi đi qua mà không hét, chỉ rình để ý trong sự cảnh giác- và đi thong dong mà chẳng thèm để ý tới con chó đó. Nhưng những tiến bộ ấy còn tùy thuộc vào sự hiệu chỉnh khéo léo của  người mẹ đi cùng, biết  tin tưởng rằng con sẽ vượt qua nỗ sợ ấy, đừng vì con sợ hãi điều gì thì tìm cách né tất cả là không nên. Có kiên trì và có sự hiểu cảm xúc nơi con để chuyển hóa những cảm xúc ấy lên trong một màu sắc tươi đẹp hơn.
    3. THỰC HÀNH CÂN BẰNG HƠI THỞ. Khi trẻ không buồn, tức ở thời gian trung lập thì nên chủ động cùng trẻ tập hít thở. Mọi cơn giận, sự lo ấu, buồn chán,…nơi con rồi cũng như áng mây trôi, sẽ tan ra rất nhanh thôi. Nên mẹ hãy cùng con tạo sự bình tĩnh qua việc hít thở. Để đến khi cảm xúc tiêu cực tới mẹ không cần phải quá lo lắng hay “rối loạn” thay con mà chỉ ra cho con hít thở để bình tĩnh.
    4. KẾT NỐI CẢM XÚC. Bất kể khi nào có thể thì hãy kết nối cảm xúc cùng con. Cảm xúc truyền nhau có thể là mỉm cười – biểu lộ sự hài lòng đối với con từ xa. Có thể cùng buồn khi con thấy mất mát một điều gì. Có thể cùng ngạc nhiên với con khi thấy đồ chơi mới hay cái thứ con khoái. Có thể cùng con vượt lên những bế tắc trong bộc lộ cảm xúc,…
    5. TẠO MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH GIÀU CẢM XÚC. Cái này đòi hỏi rất lớn từ việc hợp tác giữa các thành viên trong gia đình trẻ. Không dễ dàng gì khi chính những ông bố bà mẹ là những người thiếu thốn cảm xúc đẹp đẽ, bị tổn thương, hoặc thiếu hụt về sự bồi đáp cảm xúc thường nhật,… Phần lớn, những gia đình có con rối loạn lại hay có những yếu tố chưa ổn về bầu khí gia đình. Xuất phát từ gia đình yêu thương trong sự hài hòa cả bố và mẹ sẽ đưa ra những điều khả quan lớn trong can thiệp. Không phải cha mẹ nào cũng nắm bắt được cảm xúc của trẻ. Một số cảm xúc rất dễ nhận dạng, nhưng một số khác thì không rõ ràng như vậy. Để nắm bắt được cảm xúc của trẻ cần phải nhìn vào ngôn ngữ cơ thể của các bé, lắng nghe xem trẻ có nhu cầu gì và cung cấp những hướng dẫn cụ thể hơn để giúp trẻ kiểm soát cảm xúc của mình. Đặt ra những giới hạn cho việc thể hiện cảm xúc không phù hợp. Không hùa theo trẻ trong những cảm xúc không phù hợp.
    6. TẠO HÌNH MẪU CHO TRẺ HỌC CẢM XÚC. Trẻ học về cảm xúc và cách thể hiện cảm xúc phù hợp thông qua việc quan sát người khác – đặc biệt là cha mẹ, người chăm sóc và nhân viên trong trường. Chỉ cho trẻ cách bạn hiểu và quản lý cảm xúc sẽ giúp trẻ học hỏi từ chính ví dụ của bạn. Có thể làm mẫu trong việc nói chuyện về cảm xúc.
    7. SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CƠ THỂ KÈM THEO SỰ “BÀNH TRƯỚNG” CẢM XÚC. Khi xuất hiện tình huống “sư phạm”, có thể dùng những biểu lộ cảm xúc mãnh liệt dành cho trẻ và thể hiện rõ nét trên khuôn mặt. Ví dụ như khi trẻ bị ngã, làm hư cái ô tô rất thích đang cầm, chúng ta quan sát nhận định tình hình về cảm xúc của trẻ xong là lập tức chấp nhận những cảm xúc ấy, gọi tên cảm xúc và bộc lộ cảm xúc ấy cùng trẻ với một nét mặt đầy sự buồn tiếc, gây chú ý của trẻ và để trẻ buông xả những cảm xúc ấy, hiểu cảm xúc ấy rồi mới trấn an trẻ. Ví dụ thì muôn vàn tùy sự thích nghi vận dụng ấy như thế nào cho phù hợp một cách uyển chuyển để trẻ có thể phát triển THÔNG MINH CẢM XÚC.
    Bảo Hân 04/ 2020
  • Hãy để niềm vui dẫn lối

    Hãy để niềm vui dẫn lối

    Nếu là một phụ huynh của trẻ VIP, thì hầu như ai cũng đã từng trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau khi biết con mình…đặc biệt. Cảm xúc có thể đi từ sự phủ nhận, sốc, lo lắng hay giận dữ, sau đó là đổ lỗi cho bản thân hay cho …cả thế giới, để rồi có khi lại trầm cảm vì thương con và thương mình. Trong tất cả cảm xúc, hầu hết là tiêu cực và thường kéo dài trong một thời gian khá lâu mới có thể đi đến cảm xúc tích cực cần thiết nhất – đó là sự chấp nhận. Chúng ta phân biệt giữa sự chấp nhận việc chẩn đoán con mắc chứng tự kỷ trong giai đoạn đầu và việc chấp nhận tình trạng tự kỷ của con sau một thời gian. Khi chấp nhận chẩn đoán, điều đó chỉ có nghĩa là bố mẹ sẽ tìm hết cách để chạy chữa cho con, từ việc lặn lội tìm kiếm các cơ sở tốt, giáo viên giỏi để can thiệp…cho đến việc tham khảo đủ loại phương pháp khác nhau, từ phương pháp khoa học cho đến các phương pháp mơ hồ nhưng lại tự cho mình là hiệu quả, là thần kỳ…nhất. Nhưng có khi với tâm lý của một người ..mua vé số để cho rằng biết đâu cái phương pháp đó lại hiệu quả với con mình thì sao ?.

    Chỉ đến khi nào, sau thời gian lên bờ xuống ruộng, nghe theo không biết bao nhiêu là lời khuyên, cái đúng cái sai, cái hợp lý, cái tầm bậy…và cũng tốn kém không biết bao nhiêu là công sức và tiền của, thì may ra bố mẹ mới đạt đến ..cảnh giới là sự chấp nhận tình trạng tự kỷ của con mình, đến lúc đó mới có thể bắt đầu sự can thiệp..cho bố mẹ để đem lại các giá trị cho đứa con.

    Có những cơ sở, giáo viên và chuyên viên đã đề cập đến vai trò cần thiết của bố mẹ trong tiến trình can thiệp cho con, mà việc tham gia can thiệp cho con tại gia đình là quan trọng. Nhưng cũng không thiếu các cơ sở lại cho rằng phải cách ly gia đình, phải tập trung toàn thời gian vào việc rèn luyện bằng những biện pháp kỷ luật nghiêm khắc với những kỹ thuật lạ lùng như đứng trên con lăn, tung hứng banh và chai thủy tinh để trẻ phải tập trung cao độ, từ đó kích hoạt hệ thần kinh và có thể điều chỉnh được nhận thức, không những “chữa được bệnh tự kỷ” mà trẻ còn có thể làm được những điều thần kỳ chưa từng có trên thế giới. Còn những đơn vị khác thì nhận trẻ từ sáng đến chiều, bố mẹ khi đưa con về nhà thì chỉ cần cho con ăn ngủ là đủ, việc tập cho con tham gia các hoạt động trong là là điều không cần thiết , và chuyện dạy con như thế nào là phần của các nhà chuyên môn.

    Tuy nhiên, nếu có đề cập đến vai trò của phụ huynh, thì đa phần cũng chỉ dựa vào kỹ thuật của các phương pháp tác động khác nhau mà bố mẹ phải được đi học, được tập huấn để trở thành một chuyên gia cho chính con của mình. Điều này không sai, bởi vì rõ ràng là khi tác động trên con, bố mẹ cần có những kỹ thuật thực hành đúng bài bản, đúng kỹ thuật – Nhưng vấn đề là phương pháp nào sẽ là tốt nhất cho con ? vì phương pháp nào thì cũng được xem là phương pháp tốt nhất, cần phải áp dụng trong thời gian nhiều nhất có thể, và dùng phương pháp này để hồi phục, để chữa trị, để cho con hòa nhập với cộng đồng là hiệu quả nhất. Bao nhiêu là thuật ngữ tốt đẹp được đưa ra và lần này thì phụ huynh không còn trầm cảm hay lo lắng nữa, mà bắt đầu hoang mang … bởi vì sau khi lần lượt đi học hết khóa huấn luyện này đến buổi tập huấn khác, bê về những kiến thức kỹ năng khác nhau… như một chục món ăn bầy lên để nấu nướng, phụ huynh không biết nấu cái gì trước, nấu cái gì sau ..chưa kể là 10 điều chuyên gia dạy, mang về tới nhà thì đã rụng bớt hơn một nửa ! Chưa kịp tiêu hóa xong thì lại tiếp đến kiến thức khác… Cuối cùng, phương pháp tốt nhất mà phụ huynh lựa chọn lại là ..nhờ giáo viên về dạy cho con mình cho yên tâm!

    Tại sao lại phải chấp nhận tình trạng của con?
    Trong hầu hết những cuộc hôn nhân tan vỡ, ngoài các lý do về kinh tế thì đa phần xuất phát từ những mong đợi sự thay đổi của…đối tác ! Ai cũng biết, khi mới đến với nhau thì hầu hết chỉ thấy được những điều tốt đẹp khiến cho mình say mê. Sau đó, khi lấy nhau về thì mới phát hiện là sự thật không như mình tưởng bở, thế là xuất hiện ảo tưởng là với sức mạnh của tình yêu và lòng kiên nhẫn, mình có thể thay đổi tính cách của đối tác, y như kiểu rèn luyện cho một con cá biết ..leo cây ! Và dĩ nhiên là thất bại nếu như chúng ta không biết chấp nhận tính cách của đối tác như là điều tất yếu, vốn có của cô ấy/anh ấy – nó chỉ có thể giảm bớt, biến chuyển phần nào chứ không thể thay đổi mà chính chúng ta phải biết thích nghi và chấp nhận.

    Cũng thế, với tình trạng Tự kỷ, thì các kỹ thuật nếu tốt thì có thể làm biến đổi, cải thiện phần nào các vấn đề của trẻ đến một mức độ tốt nhất có thể, tùy vào tình trạng của con, chứ không thể “ kéo con ra khỏi” hay đưa con trở lại thiên đường …hay điều trị phục hồi… để con bình phục sau một cơn bệnh kéo dài như bao nhiêu thuật ngữ đã được sử dụng. Phương pháp điều trị dù được cho là thần kỳ đến đâu cũng hoàn toàn không thể biến một đứa trẻ thành kỷ lục gia, dù thực tế vẫn có những thiên tài tự kỷ. Nhưng các thiên tài ấy, chỉ có thể tỏa sáng băng năng lực tự có được khơi dậy trong tình trạng tự kỷ của mình. Họ vẫn là người tự kỷ với một tài năng nào đó, chứ không thể bước từ thế giới tự kỷ qua thế giới của những người bình thường mà còn có thể có thêm một tài năng thuộc nhóm “kỷ lục gia” như một thực thể đã được tô vẽ để lừa gạt phụ huynh !

    Thế nào là cảm xúc tích cực ?
    Chúng ta chấp nhận chứng tự kỷ để hình thành những cảm xúc tích cực nơi phụ huynh như yêu thương, tôn trọng, thấu cảm và lắng nghe , để từ đó tạo cho trẻ các niềm vui trong các hoạt động hàng ngày mà không quá tập trung vào việc rèn luyện các biện pháp để “cắt đứt” các hành vi kỳ cục – để dập tắt những cơn bùng nổ mà cần chuyển qua thái độ chấp nhận để nhìn nhận và phát huy những mặt tốt đẹp của trẻ dù có thể là rất ít ỏi trong thời gian đầu. Chỉ có thế thì việc vận dụng các kỹ thuật của phương pháp nào phù hợp với con mới có thể phát huy hiệu quả.

    Nói một cách đơn giản, ai cũng biết giá trị của nụ cười – bằng 10 thang thuốc bổ , nhưng cũng có nhiều người đã thấy ở con hành vi bất bình thường là cái gì cũng có thể …cười ! Một nụ cười vô hồn hay một nụ cười của sự lo lắng, căng thẳng ! Bởi thế, không phải chỉ là nụ cười, mà là các giá trị của cảm xúc được đến từ niềm vui thực sự lan tỏa từ bên trong tâm hồn của bố mẹ để hàng ngày tiếp cận và thấu cảm đến tâm hồn của con.

    Chúng ta biết rằng, trẻ đặc biệt, nhất là các bạn VIP là vô cùng nhạy cảm với những thái độ và phản ứng của phụ huynh. Nói cách khác, trẻ sẽ rất lo lắng khi cảm nhận được sự lo lắng của phụ huynh. Trẻ sẽ sợ hãi hay giận dữ khi nhận thấy sự sợ hãi hay giận dữ của phụ huynh ngay cả khi nó chưa bộc lộ ra thành các hành vi bên ngoài, điều đáng nói là trẻ chỉ cảm nhận mà không thể hiểu được bản chất hay nguyên do của sự lo lắng đó, vì thế trẻ sẽ rất căng thẳng, và sẽ có thể bộc lộ những hoảng loạn mà đến lượt chính phụ huynh lại không hiểu tại sao dù đã tìm hết cách để giải quyết.

    Với tâm thế chấp nhận tình trạng của con, biết nhìn vào các mặt tích cực của trẻ, biết hình thành các niềm vui và sự an yên cho chính mình trong việc giao tiếp với con, thì phụ huynh đã tạo ra được các cảm xúc tích cực cho bản thân, từ đó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ, và những cảm xúc tích cực ấy, từ sự yêu thương cho đến sự thấu cảm , từ sự bình tĩnh cho đến thái độ tôn trọng… tất cả những điều ấy sẽ khiến trẻ yên tâm và sẽ có được các niềm vui mà bố mẹ mang đến thông qua các hoạt động trong gia đình. Cảm xúc tích cực là sự chủ động của bản thân, cho dù chúng ta có mệt mỏi vì cơm áo gạo tiền, có đau khổ khi thấy con không nói được, không giao tiếp được với ai… Nhưng điều đó đâu có giá trị gì nếu không làm cho con có thể thay đổi ? Đâu phải hoạt động lập đi lập lại hàng chục hay hàng trăm lời nói để trẻ phải nhắc lại, là có thể giúp con phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ đâu chỉ là lời nói mà ngôn ngữ là sự tương tác một cách chủ động và thấu hiểu giữa hai con người , chỉ có thể kết nối với sự cảm thông và vui thích ! Chúng ta có muốn nói chuyện với người mà ta sợ hãi hay khó chịu không ? tại sao cứ phải buộc trẻ bật âm,phải nhắc lại và phải trả lời khi trẻ đã quá chán nản và mệt mỏi trong hàng giờ ngồi đối điện với một khuôn mặt mà sự căng thẳng có khi không cần che đậy, hoặc co khi là sự vui vẻ giả tạo bên ngoài ?

    Làm sao để hình thành cảm xúc tích cực
    Là bố mẹ, ai mà không yêu con – Nhưng tình yêu với con nếu không có sự dẫn lối của lý trí, sẽ trở nên mù quáng. Chúng ta yêu con, đó là điều cần thiết nhưng nếu vì điều đó mà cứ so sánh con mình với những đứa trẻ khác, cứ mong sao để con phải được đến trường, phải trở nên bình thường để có thể tự lo cho bản thân khi lớn lên. Từ đó lại cố gắng chữa trị bằng việc đi tìm giải pháp như cho con “thử nghiệm” hết cách này đến cách khác. Bất chấp khi con lả người đi vì cạo gió, bất chấp khi con gào khóc vì châm cứu, vì cấy chỉ hay hoảng loạn vì …lấy tủy để cấy tế bào gốc. Họ những tưởng, các nỗi đau mà con trẻ phải trải qua đó, rồi sẽ qua đi như chính bản thân họ, sau những đớn đau của phẫu thuật, bệnh tật, hay sau một tai nạn nào đó! Họ quên mất rằng họ là người lớn có quyết tâm và ý chí, còn các bé chỉ là những đứa trẻ con ngây thơ đầy cảm xúc, thậm chí luôn là một đứa trẻ dù thân xác đã cao to hơn cả bố mẹ ! Và với một đứa trẻ thì không thể dùng ý chí vượt qua cơn đau như người lớn, vì trẻ không có ý chí – nhất là với các bạn đặc biệt, thì phần bản năng và những nhu cầu về thân xác là nền tảng.

    Những nỗi đau về cơ thể và cả những sự lo lắng, buồn phiền về mặt tinh thần, sẽ là những vết dao chí tử, khắc ghi vào trong tâm trí các bạn ấy những vết sẹo không bao giờ kéo da non. Chúng sẽ âm ỷ, biến chuyển thành những cơn bùng nổ mà những sự dỗ dành hay trấn áp của người lớn đành …bất lực. Tệ hại hơn, khi những điều đó kết hợp với những lo lắng không tương tác được sẽ làm xuất hiện những hành vi hoàn toàn bản năng mà không một phương pháp nào có thể điều chỉnh nổi.

    Vì vậy, chỉ có những cảm xúc tích cực mà bố mẹ xây dựng trong tiến trình “sống vui cùng tự kỷ” mới có thể giúp con hình thành những niềm vui thực sự, trong các hoạt động như những trò chơi có chủ đích tại gia đình, hãy nhìn nhận các hành vi của trẻ một cách vui vẻ, hãy để trẻ trải nghiệm các hoạt động trong các việc bình thường nhất tại nhà, điều này sẽ dần dần tạo cho trẻ một sự thoải mái , an yên để tiếp nhận những kỹ thuật đơn giản, được tác động để tạo cho trẻ sự chủ động và sự mong muốn được giao tiếp.

    Hãy nhìn một đứa trẻ thoải mái vui vẻ, chúng ta có thể ngồi chơi và giao tiếp với bé một cách dễ dàng, nhất là nếu chúng ta lại để cho trẻ được quyền “dẫn dắt” chúng ta “đi vào” cái thế giới của chúng. Có những cơ sở đã bước đầu thành công khi để cho niềm vui của trẻ dẫn lối – khi cho trẻ có tham gia những hoạt động “chơi tẹt ga” và trẻ được là chính mình – là một trẻ tự kỷ được thương yêu – tôn trọng, chứ không phải là đứa trẻ kỳ khôi, câm lặng, phải tìm hết cách để bật ra được một tiếng chào , để trở thành học sinh ngơ ngác, cô đơn trong một lớp học nhốn nháo mà chúng ta tìm hết cách buộc trẻ phải “ hội nhập với cộng đồng” !
    Lê Khanh
    Kẻ đi tìm niềm vui với trẻ em.

  • Giúp trẻ phát triển Ngôn ngữ tại gia đình

    Giúp trẻ phát triển Ngôn ngữ tại gia đình

    Một trong những vấn đề mà trẻ đặc biệt thường gặp. Đó là tình trạng chậm nói. Điểu này sẽ khiến trẻ khó khăn trong diễn đạt lời nói và hạn chế khả năng giao tiếp, đưa đến những hành vi tiêu cực. Sau khi phát hiện thì bố mẹ thường nghĩ rằng, việc tập nói cho trẻ phải có kiến thức và kỹ năng chuyên môn và phải được can thiệp ở các đơn vị chuyên môn. Tuy nhiên đó không phải là biện pháp duy nhất mà trên thực tế, thì ngay trong các hoạt động thường ngày tại gia đình là môi trường thuận lợi giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, mà người hỗ trợ  không ai khác hơn là bố mẹ.

    Bố mẹ sẽ phải làm gì ?

    Điểu đầu tiên mà bố mẹ cần làm, đó là phải cho trẻ đi đánh giá để tìm hiểu khả năng  nói và giao tiếp ở mức độ nào ? Trẻ chưa có âm và chưa nói được một từ nào hay đã nói được các từ đơn, trẻ có thể nói được các từ đôi hoặc trẻ có thể nói được các câu ngắn. Đó là những mức độ phát triển lời nói khác nhau, để có thể áp dụng những biện pháp can thiệp phù hợp.

    Điều thứ hai là bố mẹ cần lưu ý đến các sở thích của trẻ. Đây chính là cơ sở để tạo sự hứng thú cho các em. Trẻ ưa thích món đồ chơi gì ? ưa thích hoạt động với vật dụng gì và trong thời điểm nào. Chúng ta phải biết dựa vào sở thích của trẻ để lôi kéo trẻ vào các hoạt động vui chơi, thông qua các trò chơi đó tạo sự gắn kết với trẻ.  Sở dĩ GV dạy trẻ, có thể tác động tốt với các phương pháp can thiệp về  ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ là vì cô đã tạo được niềm vui, sự ưa thích ngồi khi chơi với cô. Vì vậy, nếu muốn can thiệp tốt, PH cũng phải tạo cho trẻ niềm vui và sự ham thích khi ngồi chơi với mình. Có quan điểm cho rằng khi dạy trẻ cần nghiêm khắc, và nên áp dụng các biện pháp cứng rắn để uốn nắn những hành vi không tốt hay phản ứng của trẻ. Điều này khiến trẻ có thể phải chấp nhận các yêu cầu vì sợ cô, nhưng sẽ trở nên thụ động, chỉ trả lời với cô mà không hợp tác được với bố mẹ.

    Muốn có được sự vui thích để hợp tác, bố mẹ phải sắp xếp thời gian vào một thời điểm nhất định trong ngày, tạo cho trẻ nhiều cơ hội ngồi chơi với bố mẹ một cách thoải mái, không ép buộc. Trẻ được tự chọn món đồ chơi, cách chơi theo sở thích.. Phụ huynh chỉ nương theo các hoạt động vui chơi để từng bước dẫn dắt, tạo hứng thú và dần đần chuyển hướng sự quan tâm của trẻ vào chủ đề mà mình muốn hướng dẫn với sự chủ động của trẻ. Không có sự bắt buộc hay đe dọa nào trong khung giờ này, chỉ có niềm vui và nụ cười mới có thể tạo được sự tập trung một cách hiệu quả.

    Bố mẹ sẽ thực hiện như thế nào ?

    Khi ngồi chơi với trẻ, bố mẹ cần thu hút sự chú ý của trẻ  qua các món đồ chơi hay vật dụng  đơn giản trước khi nói với trẻ về các điều đó ! Nói cách khác là hãy dùng các cử chỉ, điệu bộ để tạo sự chú ý hơn là dùng những câu nói dài và nhanh để yêu cầu trẻ phải chú ý. Khi cần dùng lời với trẻ, thì cần nói rõ ràng, chậm rãi, nhấn mạnh vào các từ trọng tâm và nếu cần thì nên nhắc lại vài lần. để trẻ có thể ghi nhớ.

    Nói ngắn – chậm – nhấn mạnh và lập lại – Đó là các nguyên tắc ban đầu. Bố mẹ cũng cần phải nói một cách đơn giản, sử dụng vốn từ và ngôn ngữ sao cho phù hợp với mức độ nhận biết của trẻ  nhưng vẫn giới thiệu được những khái niệm và từ mới. Hãy nhớ là trẻ hiểu nhiều hơn những gì bé có thể nói.

    Hãy giúp cho con  nghe và làm theo chỉ dẫn bằng cách chỉ cho trẻ thấy bố mẹ  muốn gì vừa bằng lời nói, vừa bằng điệu bộ một cách vui vẻ . Khi con tỏ ra không hiểu, hãy nói theo cách khác thay vì chỉ lặp lại câu đó để mong trẻ phải hiểu được.

    Bố mẹ sẽ nói  với trẻ khi nào  ?

    Trong một ngày, có nhiều thời điểm khác nhau mà bố mẹ có thể giúp con phát triển ngôn ngữ. Chúng ta hãy nói với con về những gì bé thấy trong các bữa ăn  (thức ăn, đồ uống, hoạt động) trong  giờ tắm (các bộ phận của cơ thể, các hoạt động chơi với nước ) hay khi Thay quần áo (các bộ phận của áo quần, bộ phận cơ thể, các y phục dùng trong các loại  thời tiết khác nhau ) . Trong khi chơi với trẻ, ta có thể giới thiệu các loại đồ chơi . Ngay cả khi đưa trẻ đi chơi, cũng có thể nói cho trẻ một số thông tin về môi trường xung quanh.  Hãy nói với con về những gì bạn sẽ làm trong ngày và khuyến khích trẻ  tham gia.

    Với những trẻ lớn hơn, có khó khăn về ngôn ngữ ta có thể giúp trẻ phát triển qua các hoạt động thường ngày tại gia đình như trong các hoạt động dọn bàn ăn sau khi ăn xong,  trong việc đưa trẻ đi mua sắm  những thứ lặt vặt. Hay khi làm vườn  hoặc trong lúc dọn dẹp nhà cửa, phụ làm bếp với mẹ.

    Bố mẹ phát triển ngôn ngữ cho trẻ như thế nào ?

    Khi trẻ đã nói được các từ đơn ( ăn, đi , chơi , nước … )  thì hãy mở rộng những gì con bạn nói bằng cách lặp lại các từ của bé và thêm các từ khác vào. Nếu con bạn nói “thêm nữa”, hãy đáp ứng yêu cầu của bé và nói thêm “cho con thêm nữa à”, hoặc “uống nữa à”, v.v Nếu con bạn nói “muốn bóng”, hãy đáp ứng yêu cầu của bé và nói thêm “Con muốn quả bóng này à”, “con muốn lấy quả bóng”, hoặc “muốn quả bóng màu xanh” .

    Hãy lặp đi lặp những từ và âm mới. ví dụ khi đếm, sử dụng giới từ, gọi tên các đồ vật, màu sắc, v.v . Việc tập nói cần phải tạo hứng thú cho trẻ. Hãy cố gắng khuyến khích trẻ nói mà không đặt ra quá nhiều yêu cầu. Hãy nghe một cách chăm chú khi bé nói với bạn và hãy cho bé thấy bạn hiểu bằng cách trả lời bằng hành động hoặc lời nói.

    Các biện pháp giúp cho việc giao tiếp thuận lợi hơn

    1/ Tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn: hãy cho con bạn lựa chọn giữa hai thứ và hãy cố gắng giúp bé sử dụng từ để cho bạn biết bé muốn gì.

    2/ Học có chỉ dẫn: Bạn cần phải mô tả những hoạt động chơi  của trẻ. Qua đó, chúng ta có thể giúp trẻ hiểu được mối quan hệ giữa hành động và từ mô tả hành động.

    3/ Bắt chước: Hãy bắt chước một cái gì đó con bạn bắt đầu. Con bạn sẽ đặc biệt thấy thú vị với sự bắt chước đó .

    4/ Làm mẫu: Hãy khuyến khích con bạn sử dụng các từ để nói về những gì bé đang làm bằng cách làm mẫu.

    5/ Vật mới lạ: giới thiệu một cái gì đó mới lạ vào môi trường của bé.

    6/ Tường thuật:. Hãy mô tả từng thứ mà con bạn làm, sử dụng ngôn ngữ ở mức độ mà bạn muốn con bạn nói hoặc hiểu.

    7/ Diễn giải ngắn gọn và rõ ràng hơn: nếu con bạn dường như không hiểu những gì bạn nói, hãy thử diễn giải bằng những từ khác.

    8/ Kích thích bằng tranh ảnh: có thể sử dụng các bức tranh ảnh về đồ vật và các hoạt để giúp trẻ giao tiếp.

    9/ Từng mảnh một:. Đừng cho con bạn tất cả các mảnh đồ chơi  ngay lập tức. Hãy giữ một số mảnh lại để khuyến khích bé giao tiếp.

    10/ Đặt câu hỏi: đặt các câu hỏi phù hợp với tình huống.

    11/ Ngôn ngữ ký hiệu:. Ngôn ngữ ký hiệu thường giúp lời nói phát triển tốt hơn. Đối với một số trẻ khác, có thể sử dụng ngôn ngữ ký hiệu lâu hơn..

    12/ Hỗ trợ lời nói của người lớn bằng ký hiệu/điệu bộ: nhằm giúp con bạn hiểu những gì bạn đang nói,qua việc  dùng cử chỉ điệu bộ và/hoặc chỉ tay khi bạn nói.

    13/ Dùng đồ vật cùng/thay cho lời nói: nếu mục tiêu là ngôn ngữ biểu đạt, nhưng con bạn chưa thể nói tốt, hãy khuyến khích con bạn chỉ vào vật đồng thời nói hoặc thay cho việc nói từ.

    14/ Giữ lại một đồ vật để nhận được phản ứng mong muốn: nếu bạn muốn con mình tăng cường ngôn ngữ biểu đạt (ví dụ điệu bộ, dấu hiệu, các hệ thống tranh, từ ngữ), đừng đưa cho trẻ những gì trẻ muốn cho đến khi trẻ cho bạn phản ứng mong muốn.

    Đây là những biện pháp đơn giản  để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mà bố mẹ hoàn toàn có thể thực hiện tại gia đình. Hãy chịu khó và kiên trì  bé của bạn sẽ phát triển tốt.

    CVTL  LÊ KHANH

    Phòng Tư vấn Tâm Lý – Gia Đỉnh & Trẻ em.

  • Ba năm trong nước mắt – Ba tháng với nụ cười

    Ba năm trong nước mắt – Ba tháng với nụ cười

    Sáng nay, Chủ nhật 22/9/2019 – Trung Tâm GDĐB Năng Khiếu Sài Gòn đã tổ chức buổi ra mắt cơ sở mới, ( 12 BH tòa nhà Sky Center – 5B Phổ Quang Tân Bình TPHCM) Khi đến dự với những giọt mưa rả rích từ sáng sớm và không khí se lạnh như mùa Thu ngoài Bắc – Chúng tôi thầm nghĩ chắc ít có PH đến dự, và đúng là có 5 người không đến được, nhưng không phải vì mưa gió mà là do hôm nay cũng là buổi Đại hội PHHS của nhiều trường, mà PH phải đến dự vì con em của mình. Còn với trẻ đặc biệt thì luôn là ưu tiên thứ hai !

    Thế nhưng với mẹ của cháu M.A – Một cô bé xinh xắn, ở cái tuổi 11, mà vẫn chưa thể nhớ được các chữ cái ABC ! Thì việc đến dự cùng con, xem con biểu diễn múa để minh họa cho các chữ cái, mà còn đã có thể nhận biết, chỉ sau 3 tháng tham gia can thiệp tại TT. GDĐB Năng Khiếu SG, sau một quá trình học 3 năm ở trường quốc tế vẫn không thể nào nhớ, thì đó là một điều quan trọng nhất trong ngày hôm nay.

    Chị đến dự, không chỉ để chung vui với các giáo viên của trường, để nhìn con múa với niềm vui không tả, mà với những lời tâm tình của một người mẹ đơn thân, nuôi 3 đứa con mà MA là một trong 3 cháu – Đã đem lại một động lực mạnh mẽ cho chúng tôi – Những người đã đưa ra quan điểm dùng nghệ thuật để hỗ trợ cho hoạt động can thiệp các bạn trẻ đặc biệt.
    Bằng lời lẽ giản dị, không hề chuẩn bị trước chị đã chia sẻ niềm vui của một người mẹ, mà cách đây 1 năm , sau khi đã phải đưa con đi học 1 ngôi trường Quốc Tế trong 3 năm – “Ba năm đó, trong gia đình tôi chỉ có nước mắt, nước mắt của người mẹ khi thấy con không thích đi học, mà vẫn phải đi, và đi học miệt mài mà vẫn không đưa được các con chữ vào trong đầu” …. . Cuối cùng, mẹ đành phải cho con nghỉ một năm trong hoang mang, đau khổ … Để rồi, chỉ sau 3 tháng khi đưa con đến với các thầy, cô của trường Năng Khiếu Sài Gòn. Các cô đã tìm được cách giúp cho con nhớ mặt chữ, con vui vẻ và hơn thế nữa, con còn tự tin, mạnh dạn, biết trả lời những câu hỏi mà trước đây, với bất cứ điều gì thì câu trả lời duy nhất của con là : Con không biết !

    Chị đã cám ơn nhà trường, cám ơn các thầy cô – nhưng thực ra chúng tôi, những người làm công tác tư vấn tâm lý, can thiệp Giáo dục Đặc biệt phải cám ơn chị, cám ơn người đã đem lại nguồn động lực mạnh mẽ cho chúng tôi, đã minh chứng cho quan điểm giáo dục tích cực bằng niềm vui và nghệ thuật của chúng tôi là đúng đắn, là hiệu quả.

    Không chỉ có M.A – Mà còn bạn B – một cậu bé 4 tuổi bị chứng đầu nhỏ, chậm ngôn ngữ và nhận thức, cậu ấy không chỉ tự tin, mạnh dạn hơn mà khả năng nhận thức cũng có những bước tiến bộ đáng kể, khi được kết hợp với các hoạt động vẽ tranh và sinh hoạt ngoài trời. Ngoài ra còn có bạn TH., Bạn PH. Là những bạn có yếu tố tự kỷ, qua việc thể hiện cảm xúc, tư duy bằng nét vẽ, bằng những buổi nghe nhạc, chơi nhạc… và phương pháp Giáo dục tích cực, cũng đã có những bước tiến chỉ sau 6 tháng can thiệp.

    Chúng tôi cũng vô cùng tiếc cho các bạn học sinh đầu tiên của trường – Bạn S ( 12 tuổi ) và bạn H ( 15 tuổi) . đã có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt là S. Một cậu bé chậm phát triển, không thể học qua lớp 4 – đã bộc lộ một tài năng về hội họa, mà thầy Hoàng, người dạy vẽ cho các em đã vô cùng hứng thú, muốn đưa em vào đội ngũ làm việc với mình trong nhóm vẽ . Các bạn ấy phải nghỉ vì hoàn cảnh gia đình, phải chuyển ra ngoài Bắc, gia đình các em cũng rất tiếc nhưng đành phải chịu.

    Chỉ mới tròn 1 năm trong giai đoạn thể nghiệm, chỉ với 3, 4 Học sinh ban đầu nhưng các Thầy Xuân Đăng, cô Hiền Lương, cô Nhung, cô Yến, cô Thanh… cùng các giáo viên Múa – Nhạc và Vẽ đã hết sức nhiệt tình với tình yêu dành cho các bạn đặc biệt. Chúng tôi hãnh diện vì có được các giáo viên như thế. Cũng như với cô Trang, Giám Đốc Trung tâm , người đã nhiệt tình bỏ công sức, đầu tư để có được một ngôi trường khang trang hiện đại, với những trang bị có hiệu quả cho hoạt động giáo dục hòa nhập và tiền hướng nghiệp cho các em ( Phòng học múa, vẽ, nhạc , phòng bếp, phòng vi tính và phòng hoạt động Tâm vận động, các góc can thiệp cá nhân…) . Điều đáng quí là chị cũng đã tự trang bị cho mình những hiểu biết cần thiết trong lĩnh vực này, đủ để tư vấn cho phụ huynh cũng như quản lý một cách hiệu quả các hoạt động nhà trường.

    Đây chỉ là bước khởi đầu cho một hành trình dài, nhưng có thể nói đó là một niềm vui không nhỏ với chúng tôi, những người làm việc trong lĩnh vực Tâm lý – Giáo dục đặc biệt trong gần 30 năm ( từ 1991), đã miệt mài đi tìm những phương hướng phát triển cho các trẻ đặc biệt, với quan điểm là tìm kiếm những năng lực tiềm ẩn và ít ỏi để phát triển thay vì cứ cố gắng can thiệp, uốn nắn hành vi để sửa chữa các điểm yếu kém và tiêu cực của các em. Việc xây dựng một cơ sở không chỉ đơn giản là tìm một địa điểm, mở ra một ngôi trường, tìm kiếm những người cùng làm việc và thu nhận học sinh qua các chiêu trò truyền thông…. Mà điều quan trọng là phài có sự định hướng phát triển cho các em học sinh của mình.

    Điều này rất khác với các trường giáo dục bình thường và cũng khác với cả các trường giáo dục chuyên biệt. Chúng tôi không chỉ chú trọng đến việc can thiệp ngôn ngữ, hành vi, nhận thức, để khi các em biết nói, không còn nhiều các hành vi bất thường, là đã cho ..ra trường, chuyển qua học hòa nhập với các bạn bình thường. Điều này đúng là mong muốn của các PH, luôn muốn con mình “khỏi bệnh” “ nói được” “ học được” và rất vui khi con của mình mặc được bộ đồng phục của một ngôi trường tiểu học… mà không nghĩ rằng các em dù được xem là học sinh, vẫn đến trường, đến lớp nhưng thực sự các em vẫn chưa thể bình thường, hay không thể đuổi kịp các bạn khác trên con đường học vấn, để rồi sau đó, có thể cố gắng đeo đuổi lên đến lớp 4, lớp 5 … thậm chí là lớp 9, lớp 10 với cái giấy chứng nhận “trẻ khuyết tật trí tuệ” , thì cũng sẽ đên một lúc nào đó em sẽ lại …hòa nhập tại gia đình, vì không thể học thêm được hay không còn muốn đến trường nữa.

    Con đường còn dài, nhưng khi đã vạch ra cho mình một định hướng, một mục tiêu… lại có được những người bạn đồng hành tuyệt vời, và nhất là với sự hợp tác tích cực của phụ huynh, thì chúng tôi tin rằng, sẽ thực sự làm được một điều gì đó cho các trẻ đặc biệt yêu quý của mình.
    Lê Khanh.